Người dịch: Giáo sư Phan Văn
Các
Nguyên Viện trưởng Viện Hán
Nôm
1. Khởi tổ: Phúc Nhân sinh con trưởng
là Phúc Lương.
Phúc Lương sinh con trưởng là Phúc Thịnh, con thứ là Phúc Độ.
Phúc Thịnh thừa tự, từ đường hiện nay do Trần Quang Xưởng thờ phụng.
2. Phân tổ Phúc Độ sinh con trưởng là
Phúc Chân, con thứ là Phúc Hoàn. Phúc Hoàn không may không có người thừa tự.
3. Cao tổ Phúc Chân sinh ra con trưởng
là Thuần Chất, con thứ là Phúc Ân. Thuần Chất thừa tự, từ đường hiện nay do
Trần Hữu Tài thờ phụng.
4. Phân tổ Phúc Ân sinh ra con trưởng
là Phúc Chính, con thứ là Đức Nghiệp. Phân chi của tổ Đức Nghiệp từ đường hiện
nay do Hữu Khương thờ Phụng.
5. Cao tổ Phúc Chính sinh ra con trưởng
là Ôn Chất, con thứ là Ôn Từ. Ôn Chất thừa tự, từ đường hiện nay do do Hữu Thi
thờ phụng.
6. Phân tổ Ôn Từ sinh được 6 con trai
là Trưởng Diễn, Trọng Tiễn, Trọng Tộ, Trọng Niên, Trọng Trường, Trọng Thọ.
Trưởng Diễn không có con trai kế nối, Trọng
Tiễn thừa tự, chăm nom hương hoả.
7. Cao tổ Trọng Tiễn sinh được 6 con
trai là Trưởng Huấn, Trọng Vị, Trọng Chế, Trọng Sủng, Trọng Quân và con út là
Chẩn.
Trưởng Huấn, Trọng Vị không có con thừa kế. Trọng Chế thừa tự, trông nom
hương hoả.
8. Tằng tổ Trọng Chế sinh 4 con trai là
Trưởng Thất, Trọng Vũ, Trọng Thần và út Cung. Ai nấy đều có chức nghiệp, sinh
con đẻ cháu rất phồn thịnh.
9. Bà vợ cả của Tằng tổ là người họ
Dương, sinh ra trưởng Thất và Trọng Vũ. Trọng Vũ không may không may không có
người kế nghiệp.
1- Ông nội trưởng Thất sinh ra con trưởng
là Huệ. Ông Huệ sinh được 4 con trai, từ đường hiện nay do Trần Hữu Oánh trông
nom hương hoả.
1- Ông chú là Cung sinh được 5 con trai, con
trưởng là Hữu Phú. Hữu Phú sinh được 4 con trai, con trai trưởng là Trần Hữu
Tích trông nom hương hoả.
1- Bà vợ thứ của Tằng tổ là bà họ Cát. Sinh
ra con lớn là Thần (Thìn), con thứ là Cung. Con trưởng sinh ra ông trưởng Uyển.
Trưởng Uyển sinh ra trưởng Thái. Trưởng Thái sinh được 5 con trai, hiện nay
chia ra các chi nhánh. Bà họ Cát vợ thứ của Tằng tổ còn nhà thờ do cháu trưởng
là Trần Hữu Ẩm thờ phụng.
Biểu
đồ không thể diễn đạt hết được ý nghĩa, phải ghi lại để nói cho rõ. Họ Đông A
(tức họ Trần) ta, từ xưa vốn là dòng họ lớn, sách vở ghi chép tên tuổi còn để
lại tiếng thơm. Truyện ở Phương Đình có họ Trần gặp được vận lành, trong thời
thịnh trị, thuần phong đôn hậu, cảnh tượng thái hoà, tổ phụ bá thúc, huynh đệ
tử tôn đều là dân của nhà vua, sống trên đất của nhà vua, được đức vua che chở,
thật đúng là do trời phú cho, phong tục cổ kính hồn nhiên. Gia đình hiếu thảo
hữu ái, nền nếp nhân nghĩa kính ái, ngày càng dày thêm, từ một gốc sinh ra muôn
cành ngàn lá. Thời buổi ấy, thế cuộc ấy, nay nhìn thấy, nay nghe thấy, năm
tháng xa đi, vật đổi sao dời, vận hội thăng trầm, khí số thịnh suy, như viên
ngọc quý còn có chỗ vết nho nhỏ, như cây gỗ tốt có chỗ mục nhỏ. Nghe kể lại
việc xẩy ra vào đời vua Vĩnh Hựu (1735-1740), chẳng phải là tình nghĩa, họ hàng thân thích
ruột thịt lại nhìn nhau như kẻ hằn thù, ai nấy chia riêng chi phái, ai nấy lập
nghiệp riêng ra từ đường. (Các cụ ta ngày trước kể rằng, từ đời cụ tổ Phúc Độ
ta, tiên tổ phụ huynh vốn thờ chung trong một từ đường ở nhà Trần Quang Mạch,
sau đó anh em bất hoà với nhau, bèn lập ra từ đường riêng ai nấy thờ cúng). Rút
cục tiếng tăm để lại, một bầu tâm sự này từ nay trở về sau còn trời còn đất là
vậy. Vì thế đến khỏang thời Thiệu Trị (1740-1747), từ đường đôi chi lại hợp làm
một. (Cả họ tụ tập tại từ đường nhà ông Trần Quyền). Trộm nghĩ công ơn tổ tiên
ngày xưa mưu tính có lẽ do oan trái gì ngày trước. Hai ngôi từ đường cùng thờ
phụng tổ tiên, nay hợp lại để cúng tế, thế nhưng chẳng được bao lâu thì lại
thôi không hợp nữa. Than ôi, lòng người như thế, như thế, ai oán lẽ trời chẳng
hay, chẳng hay. Thóc đem vào cối xay, vải đem đi may áo, cần phải suy nghĩ sâu
xa đến ngọn nguồn. Nước có nguồn, cây có gốc cần phải suy nghĩ lẽ đó. Ngày
tháng lại dần dần trôi qua, cho đến khoảng năm thứ tư, năm thứ năm đời vua Tự
Đức (1848-1883), hai từ đường lại một lần nữa hoà hợp với nhau ở từ đường nhà
Trần Quyền. Có được ngày nay lại nhớ ngày xưa, lòng hối hận thúc đẩy phải làm
việc thiện, truy tìm lại nguồn ngọn cành lá, hàng năm hai mùa xuôn thu, đặt ra
thành điều lệ tế lễ. (Mỗi kỳ đến ngày tế lễ, phải sắm sửa một cái lễ trị giá độ
một quan tiền, hễ khi có việc vui mừng chúc tụng thì phải sắm một cái lễ trị
giá độ ba quan tiền). Các loại đồ lễ sắm sửa đủ đem đến lễ ở từ đường (từ đường
do Trần Quang Mạch trông nom thờ cúng). Phải nhớ đến công đức của tổ tiên từ
xưa để lo đền đáp, con người ta có nguồn gốc tự tổ tiên, được lễ nghĩa sắp xếp
theo dòng phái, giống như nước có nguồn, cây có gốc. Con cháu các ngươi đời sau
hãy nhớ đến công đức của tổ tiên ta, tinh thần anh linh của các vị còn mãi như
ngày xưa, muôn dời không thay đổi, vạn đại vẫn như thấy còn đó. Cần phải tỏ
lòng chí thành, đời sau kế nối đời trước làm rạng rỡ cho tổ tông. Người xưa có
làm thơ ca răn dạy, nói việc anh em trong nhà chém giết lẫn nhau, bánh xe trước
đổ là điều răn dạy kẻ sau vậy. Cần phải khắc cốt ghi xương nhớ lấy những lẽ
vĩnh hằng của trời đất, những điều nghị luận chung của xưa nay, trăm mối ngàn
đầu đều được thấy bắt đầu từ đây, không có gì lớn hơn thế cả, do vậy làm ra phả
ký, khuyên bảo con cháu nhớ đến công đức của tổ tiên, biết được rằng, trước sau
vẫn như một dù là qua hàng vạn năm.