Cách đây 772 năm, khoảng
10 giờ đêm ngày 3 tháng tư năm Bính Thân (1236), vua Trần Thái Tông đã
trốn khỏi kinh kỳ Thăng Long ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử tìm gặp
“cố giao” là quốc sư Phù Vân để đưa ra một thỉnh cầu: “Trẫm muốn
vào núi là chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu gì khác”. Nhưng sư Phù
Vân không một chút đắn đo, đáp rằng: “Núi vốn không có Phật, Phật
chỉ có ở trong tâm, tâm lặng lẽ mà biết, ấy là tâm Phật. Nay nếu bệ
hạ giác ngộ được cái tâm ấy thì lập tức thành Phật, không phải
khốn khổ cầu tìm ở bên ngoài”. Câu trả lời của Phù Vân biểu lộ quan
điểm cơ bản của Thiền Việt Nam, nhất là của dòng Thiền Trúc Lâm
sau này.
Yên Tử là ngọn núi cao nhất
(1.068m) trong dãy núi ở vùng Đông Bắc nước ta chạy dài tới biển. Các
triều đại phong kiến đều xếp Yên Tử vào loại “danh sơn”. Nguyên ngày
xưa núi này có nhiều cây thuốc mọc tự nhiên, không ai còn nhớ vào
thời kỳ nào, trên núi xuất hiện một đạo sĩ tên là An Kỳ Sinh chuyên
hái cỏ cây để luyện thuốc trường sinh bất lão. Đạo sĩ dựng trên núi
một ngôi chùa nhỏ để tụng niệm. Vậy mà từ đó núi có tên là An Tử,
về sau vì kiêng tên huý của An đô vương Trịnh Cương mà đọc thành Yên tử
như ngày nay. Dựa vào thư tịch cổ, chúng ta biết rằng từ cuối triều
nhà Lý, Thiền sư Hiện Quang, thuộc thế hệ 14 của dòng Thiền Vô
Ngôn Thông đã từng tu Phật tại đây. Nhưng Yên Tử thực sự trở thành
nhộn nhịp, hấp dẫn kể từ sau đại thắng Bạch Đằng năm 1288 chống
quân Mông- Nguyên xâm lược gắn với sự nghiệp tu hành của vị vua anh
hùng Trần Nhân Tông- người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Dòng
Thiền Trúc Lâm do Trần Nhân Tông sáng lập không chỉ là sự mở đầu cho
một Thiền phái thuần Việt, mà còn là một sự tiếp nối, dung hoà
các dòng Thiền trước đó như: Tì-ni-đa-lưu- chi, Vô Ngôn Thông, Thảo
Đường. Dĩ nhiên, giáo lý Trúc Lâm có kế thừa những yếu tố tích cực
của Phật giáo Đại thừa Ấn Độ và Thiền Tông Trung Quốc, nhưng vẫn
có tính độc lập riêng như: Không phủ nhận đấu tranh giai cấp, không
khuyên người đời cam chịu khổ hạnh, hướng mọi người đến cuộc sống
yêu thương. Thiền Trúc Lâm chấp nhân quy luật của tự nhiên, chủ
trương lăn vào cuộc sống để giảm bớt cái khổ cho chúng sinh như
khoan sức dân, dùng chính tín và đạo lý làm đòn bẩy nâng cao tinh thần
tự lập, tự cường của dân tộc. So với các Thiền phái thời Lý, các
Thiền gia Trúc Lâm như Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần
Tung, Pháp Loa Đồng Kiên Cương, Huyền Quang Lý Đạo Tái…không quá hư vô
như một số nhà sư dòng Vô Ngôn Thông và cũng không nghiêng về phù
phép ma thuật như nhiều nhà sư dòng Tì-ni-đa-lưu-chi. Việc Thái tổ
nhà Trần- Trần Thái Tông và Thượng hoàng Trần Nhân Tông đến tu ở Yên
Tử, không đơn thuần vì ngưỡng mộ đạo Phật mà chủ yếu muốn đem uy
danh và trí tuệ nâng giáo lý nhà Phật vốn được du nhập từ bên ngoài
thành quốc đạo, nhằm xây dựng cho quốc dân một hệ tư tưởng dân tộc,
tích cực, đủ khả năng dung hoà các tư tưởng Nho, Phật, Lão theo hướng
“Tam giáo đồng nguyên”.
Để tìm hiểu Thiền Trúc Lâm, chúng
ta không thể không nghiên cứu tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ, người
đã truyền thụ giáo lý cho tổ thứ nhất- Điều ngự Giác hoàng Trần
Nhân Tông. Tuệ Trung Thượng Sĩ là pháp danh của Hưng Ninh Vương Trần
Tung (anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn), một nhà Thiền học
có bản lĩnh, từng lập tịnh xá tu hành, hoằng dương Phật pháp tại sơn
môn Mỹ Cụ (Thuỷ Nguyên). Có một câu chuyên vui về nhà Thiền học “ăn
thịt có lý luận” này được chép trong “ Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục”:
Một hôm, Thái hậu Thiên Cảm, em ruột của Thượng Sĩ, làm tiệc chiêu
đãi. Trên bàn tiệc, Thượng Sĩ ăn cả thịt, Thái hậu thấy lạ, bèn hỏi:
“Anh bàn chuyện thiền mà lại ăn thịt sao thành Phật được?” Thượng Sĩ
cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh, anh không muốn làm Phật, Phật
cũng không muốn là anh. Chẳng thấy các bậc tu xưa đã nói: “Văn Thù là
Văn Thù, giải thoát là giải thoát” đó sao?. Rõ ràng ý thức dân tộc và
tư tưởng thân dân của quý tộc nhà Trần, có mạch sống từ những cuộc
chiến tranh giữ nước đã làm cho Thiền Trúc Lâm trở thành thiền nhập
thế. Giáo sư sử học Hà Văn Tấn trong công trình nghiên cứu “Nghĩ về
Thiền và Thiền Trúc Lâm” đã đưa ra nhận định: “Thực ra, Phật giáo
Việt Nam, do số phận lịch sử của nó, đã có tính nhập thế từ rất
sớm. Dưới thời Bắc thuộc, khi Nho giáo được du nhập dưới sự bảo trợ
của kẻ xâm lược, thì Phật giáo đã dần dần trở thành thứ tôn giáo của
nhân dân, trực tiếp hay gián tiếp, có vai trò trong cuộc giải phóng
dân tộc. Vai trò đó đã cắt nghĩa ưu thế của Phật giáo trong buổi
đầu xây dựng nền độc lập dân tộc từ thế kỷ thứ X. Nhiều nhà sư đã
trở thành cố vấn chính trị cho nhà vua. Sư tham gia vào việc triều
chính và đối ngoại. Trong đời Lý, Phật giáo có phần thịnh vượng hơn
thời Đinh- Lê, nhưng từ sau Vạn Hạnh, dừng như nó bắt đầu bỏ quên vị
trí tích cực của mình. Cuối Lý, các khuynh hướng hư vô hay sa đoạ đã
phát triển…Triều Trần thành lập, cùng với các chiến công giữ nước,
đã thổi một luồng sinh khí mới cho Phật giáo”.
Từ lâu, non thiêng Yên Tử đã thu
hút sự chú ý của các thế hệ người Việt, nhất là những người quan tâm
đến vốn văn hoá dân tộc và lịch sử hình thành, phát triển của Phật
giáo Việt Nam. Khu di tích Phật giáo Yên Tử- nơi tập hợp hàng nghìn
chùa, tháp, bia, tượng…có niên đại trải dài nhiều thế kỷ, phân bố
hầu khắp sườn phía Nam của non thiêng. Sau gần một thiên niên kỷ tồn
tại, trong hoàn cảnh luôn bị thiên tai, địch hoạ tàn phá, những gì còn
lại rất đáng được trân trọng, bảo vệ, trùng tu, tôn tạo để truyền
cho hậu thế. Đến với non thiêng Yên Tử bằng con đường tìm về cõi
Phật của người xưa, khách hành hương sẽ lần lượt được chiêm bái vẻ đẹp
thần tiên, u tịch cũng như huyền tích hư hư, thực thực về suối Hổ
Khê và chùa Giải Oan, được ngắm hàng tùng cổ thụ do chính tay sơ tổ
Trần Nhân Tông trồng. Tiếp đó, men theo con đường mòn, du khách sẽ
tới khu tháp Tổ nổi tiếng với 46 bảo tháp được dựng bằng đá xanh,
cẩm thạch, hay bằng đất nung đều đã xanh rêu mốc, mà trung tâm là
lăng Quy Đức- nơi chôn xá lỵ Điều ngự Giác hoàng. Tháp mộ Quy Đức có 6
tầng, cao 11m, xây bằng đá, chạm trổ tinh vi, tầng thứ 2 đặt tượng
Trần Nhân Tông bằng đá cẩm thạch, trong tư thế toạ thiền khoan thai,
tự tại. Từ lăng theo lối đi lát gạch cổ đưa bước chân du khách tới
chùa Hoa Yên (còn gọi là chùa Cả hay chùa Yên Tử), vết tích cổ xưa và
quy mô to lớn của chùa chỉ còn tìm thấy qua di sót vật liệu trang trí
kiến trúc, cây đại cổ thụ bẩy, tám trăm tuổi và dấu tích của tháp
Độ Nhân tráng lệ phía sau mà thôi. Từ đây, men theo sườn núi, qua
suối Ngự Dội, tới am Ngoạ Vân (nay không còn nữa) bồng bềnh mây bay,
thoả sức phóng tầm mắt ra tận Hạ Long xanh. Rời Ngoạ Vân, trên hành
trình vượt núi giữa ngút ngàn rừng trúc , thì đến chùa Bảo Sái chung
chính giữa sườn non, tiếp đến là chùaVân Tiêu đẹp đột ngột. Lách qua
“cổng trời”, thấy hiển hiện hình bóng An Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo in
trong dáng núi, từ “cổng trời” leo trên dốc dựng đứng là đến tận
đỉnh non cao- cảnh giới thần tiên. Ở mỏm đá cao nhất là nơi đặt ngôi
chùa Thiên Trúc tự bằng đồng, nên tục gọi là chùa Đồng. Người xưa tin
rằng, mỗi khi chuông chùa Đồng điểm là thấu đến Cửu trùng.
Non thiêng Yên Tử với Thiền phái Trúc
Lâm mãi mãi là biểu tượng rực rỡ của Phật giáo Việt Nam cũng như văn
hiến, văn minh Đại Việt, thấm đẫm khí phách hào hùng, tính nhân bản
của người Việt.