“Người con gái của Trần Lý, có nhan sắc”
ấy, lấy được hoàng thái tử nhà Lý, từ năm 1209, chính là Trần Thị Dung.
Và đấy là một cuộc hôn nhân định mệnh, không chỉ đối với tuổi thiếu
niên – khi ấy mới vừa 15 – của hai thân phận cực kỳ chênh khác, mà còn
là đầu mối dẫn đến việc mất ngôi của cả một triều đại cũ, và sự thiết
lập hẳn một vương triều mới, chỉ trong vòng hơn 10 năm tiếp theo sau.
Ngay ở năm đầu của cuộc sống lứa đôi,
Trần Thị Dung) và Hoàng thái tử Lý Sảm đã phải mỗi người một nơi. Bởi,
cô chỉ như là một mối dây để buộc nối thế lực và tham vọng của dòng họ
Trần ở quê hương mình với sự nghiệp và triều đình nhà Lý đã rã rời ở
kinh đô Thăng Long mà thôi. “Nhà Trần Lý” – mà cô là con gái, người cha
đẻ Trần Lý, chú ruột Trần Hoằng Nghị, còn có cậu ruột Tô Trung Từ, các
anh trai Trần Thừa, Trần Tự Khánh, và đặc biệt là người em con chú con
bác Trần Thủ Độ… – như lời sử cũ chép: kiêu dũng, dân dã mà giàu có bởi
“ăn sóng nói gió” ở một vùng ấp biển trù phú mà hoang sơ, ngay sau khi
kết thân được với hoàng tộc triều đình, đã – vẫn lời sử cũ – “họp hương
binh để dẹp loạn, rước vua (Lý Cao Tông) về kinh, khôi phục chính
thống”!
Những tưởng đấy là dịp để cô gái miền
nước mặn đồng chua cũng tiến kinh để nhập cung cùng chồng, nhưng: “Mùa
xuân, tháng ba, (năm 1210) vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem
quân về nhà Tô Trung Từ đón hoàng thái tử về kinh sư, còn người con gái
(Trần Thị Dung) thì… về nhà cha mẹ! (Bấy giờ) Trần Lý đã bị bọn giặc
khác giết, con thứ là Trần Tự Khánh thay đem quân chúng về kinh, được
phong là Thuận Lưu bá!”(2) Như vậy là nàng dâu dân dã đã bị nhà chồng
hoàng tộc ruồng rẫy. Nhưng vị thế và dòng họ nhà Trần của cô – nhờ thực
lực của mình, và sự thực dụng của triều đình – vẫn thông qua nút dây
Trần Thị Dung bị ghẻ lạnh mà đạt được ý đồ, tham vọng: cài người vào
cung đình Thăng Long!
Vua Lý Cao Tông mất ngay vào mùa đông
năm ấy tại cung Thánh Thọ, giữa hoàng thành Thăng Long mà họ Trần vừa
góp phần khôi phục. Và đấy cũng là dịp để hoàng thái tử Lý sảm kế
nghiệp, lên ngôi, trở thành “Lý gia đệ bát đẽ” Huệ Tông, khi mới 16
tuổi. Nhà vua trẻ bây giờ đã là bậc quân chủ triều đình, và “hành động
toàn quyền” đầu tiên của hoàng đế vừa mới trị vì chính là: “Đem thuyền
rồng đi đón Trần thị” 1
Nhưng cũng phải đến năm sau nữa – tới
tháng hai năm Tân Mùi (1211) – Trần Thị Dung mới đến được kinh kỳ, gia
nhập gia đình hoàng tộc nhà Lý, và trở thành người Thăng Long, với danh
vị là nguyên phi của vua Lý Huệ Tông. Lý do vẫn chỉ là sự níu kéo, giằng
co, khi lỏng khi chặt, nhưng đầy rối rắm, giữa tình thế hỗn loạn của
một cuộc “đau đẻ lịch sử”, “chuyển dạ thời đại”, đầy rẫy những âu lo và
âm mưu, thủ đoạn, từ hai nhà và họ Lý – Trần! Những người đại diện cuối
cùng của triều đình nhà Lý – đặc biệt là bà mẹ vua: thái hậu Đàm thị –
luôn coi Trần Thị Dung là cái gai mà nhà họ Trần đem cắm vào cơ thể đã
mục ruỗng của mình. Còn đại diện cho thế lực của nhà họ Trần – lúc đầu
là những Trần Tự Khánh, Tô Trung Từ (anh thứ và cậu ruột của Trần Thị
Dung) và về sau; khi những người này đã chết, thì đến lượt những Trần
Thừa, Trần Thủ Độ (anh cả và em con chú con bác của Trần Thị Dung) – ra
sức thao túng con bài đắc dụng này.
Tất cả xoay vần giữa vòng xoáy thế sự
đảo điên như thế, Trần Thị Dung, hết long đong trôi giạt theo chồng và
nhà chồng, từ Thăng Long lên Châu Lạng (Lạng Sơn), về cửu Liên (Hưng
Yên), lại trồi sụt thăng giáng thân phận, từ nguyên phi, xuống ngự nữ,
rồi phu nhân…, thậm chí còn lâm cả vào cảnh rập rình giữa sống và chết:
“Thái hậu (Đàm thị) cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu
nhân (Trần Thị Dung) mà nói là bè đảng của giặc, bảo vua (Lý Huệ Tông)
đuổi bỏ đi; lại sai người đến nói với phu nhân, bảo phải tự sát. Vua
biết, mới ngăn lại. Thái hậu bèn bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu
nhân, Vua phải chia mỗi bữa ăn cho phu nhân một nửa, và không lúc nào
cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai người cầm chén thuốc độc đến bắt phu
nhân phải chết. Vua ngăn lại không cho, rồi đêm ấy, cùng phu nhân lẻn đi
đến chỗ quân của Trần Tự Khánh… ”(4)
Chỉ đến /và từ / năm 1216 ấy, sau 5 năm
gắn bó giữa luân lạc, với Lý Huệ Tông, khi Trần Thị Dung mới bắt đầu
sinh hạ con gái đầu lòng – Thuận Thiên công chúa – không phải giữa hoàng
cung Thăng Long gác tía lầu son, mà là trên bãi sông Cửu Liên (Hưng
Yên), thì khi ấy, cùng lúc với những người bảo trợ ruột rà của mình đã
đứng được chắc chân tại chốn triều đình, Trần Thị Dung mới dần dà và
đích thực, ổn định thân phận và thi triển vai trò của mình: “Mùa đông,
tháng chạp, năm Bính Tý (1216), sách phong phu nhân (Trần Thị Dung) làm
hoàng hậu, phong (Trần) Tự Khánh Lm thái úy phụ chính, cho anh trai Tự
Khánh là Trần Thừa (tức: (về sau là) thượng hoàng nhà Trần) làm Nội thị
phán thủ.. .”
Nhưng tai ương cũng còn bục ra từ trong
bọc hoàng tộc nhà Lý liền ngay đấy: “Mùa xuân, tháng ba, năm Đinh Sửu
(1217) vua (Lý Huệ Tông) dần dần phát điên, có khi tự xưng là thiên
tướng giáng trần, tay cầm giáo và khiên, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa
từ sớm đến chiều không nghỉ, có khi thôi đùa nghịch, đổ mồ hôi, nóng
bức khát nước, thì uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh”
Tuy nhiên người chồng nửa điên nửa dại
ấy, vẫn còn kịp sinh thêm với Trần Thị Dung vào tháng chín năm sau
(1218) một con gái nữa – Chiêu Thánh công chúa – chính là cái chốt để
sau đấy 7 năm, nhà họ Trần sẽ rút vặn, làm sập đổ cả cơ nghiệp trị vì
216 năm nhà Lý”.
Trần Thị Dung, trong vai hoàng hậu cuối
cùng triều đại “Lý bát đế” ấy, đã sống ra sao và làm những gì, trong
thời gian 7 năm cuối cùng của nhà Lý, giữa hoàng cung Thăng Long, thì
không thấy sử cũ ghi chép dòng nào. Nhưng bằng vào những sự kiện đích
thực trong lịch sử thời gian này, đặc biệt là việc thay mặt người chồng
nửa điên nửa dại của mình, đem gả con gái lớn của mình – hoàng trưởng nữ
Thuận Thiên – cho con trai cả anh ruột mình – tức cháu gọi mình bằng cô
ruột – Trần Liễu – thì cũng đủ thấy: trong “màn dạo đầu” hoặc “khúc vĩ
thanh”) của cuộc “đảo chính cung đình cuối năm 1225, cũng như là trong
toàn bộ cuộc vận động chuyển ngôi từ Lý sang Trần (tức: “sự nghiệp thay
đổi triều đại để phát triển lịch sử ở đầu thế kỷ XIII”), vai trò và đóng
góp của Trần Thị Dung, rõ ràng không phải là nhỏ.
Sử cũ ghi chép: Từ năm 1223, bệnh tình
của “Lý gia đệ bát đế” Huệ Tông ngày càng nặng, và đến năm sau – mùa
đông tháng mười năm Giáp Thân (1224) – thì xuống chiếu nhường ngôi cho
công chúa út – Chiêu Thánh – để vào chùa Chân Giáo, đi tu! Việc lựa chọn
– không phải ai khác, mà lại là – đứa con gái nhỏ vào lúc này mới 7
tuổi (kể cả tuổi mụ) để đặt vào ngai vàng, rồi tiếp ngay sau đó – mùa
đông, tháng mười năm Ất Dậu (1225) – đem đứa con gái mới được 8 tuổi (kể
cả tuổi mụ) ấy, gả chồng, rõ ràng, nếu không có sự đồng tình – hoặc
giả, là chủ trương – của người mẹ, đồng thời là hoàng hậu, rồi hoàng
thái hậu đương quyền Trần Thị Dung chắc chắn không thể được thực hiện.
Trong lễ nhường ngôi của con gái Lý
Chiêu Hoàng cho con rể, cũng chính là đứa cháu nhỏ gọi mình bằng cô ruột
– Thái Tông Trần Cảnh – ngày 11 tháng chạp năm Ất Dậu (1225), ở tòa
chính điện Thiên An giữa tòa Long Phượng thành của kinh đô Thăng Long,
không thấy có sự hiện diện của Sử cũ không chép rõ việc Thuận Thiên được
gả cho Trần Liễu, là trước hay sau cuộc hôn nhân Chiêu Thánh – Trần
Cảnh.
Trần Thị Dung, mà chỉ thấy sử cũ chép về
“thánh phụ” Trần Thừa của Trần Cảnh giờ đã thành “Thượng hoàng nhiếp
chính”, và chú họ của Trần Cảnh – Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ – giờ
thì cũng được phong làm “Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị của
nước”! Nhưng như thế không có nghĩa là trong việc đặt định anh ruột
(Trần Thừa), cháu ruột (Trần Cảnh), em họ (Trần Thủ Độ) vào những chỗ
chí tôn cực vinh như thế của việc triều chính, không có sự sắp xếp –
hoặc chí ít cũng là sự thỏa thuận – của Trần Thị Dung! Sách “Khăm định
Việt sử thông giám cương mục ” đã có đến hai chỗ (hai lần) ghi chép rõ –
dĩ nhiên là theo lối viết sử của triều Nguyễn – về vai trò và tác động
của Trần Thị Dung trong /và đối với/ những sự kiện lịch sử thời cuối Lý –
đầu Trần này: “Trần Thủ Độ và vợ vua Huệ Tông (tức: Trần Thị Dung) tự
tiện chuyên quyền, để ngầm chuyển ngôi vua nhà Lý”, và: “Hoàng hậu (nhà
Lý – Trần Thị Dung) cùng với (Trần) Thủ Độ tư thông, rồi bàn mưu ở trong
cung, làm tờ chiếu để vua nhà Lý truyền ngôi cho nhà Trần”.!)
Trần Thị Dung, đến cuối năm 1225 – đầu
năm 1226, vậy là đã thi triển và hoàn thành “sứ mạng” mà dòng họ và thế
lực nhà Trần giao phó và trông cậy ở bà, từ hơn 10 năm trước, trong vai
trò của vợ thái tử, rồi vợ hoàng đế thứ tám nhà Lý, và mẹ của nữ hoàng
cuối cùng triều đại này. Bây giờ, cùng với việc kết thúc một giai đoạn
cuộc đời và sự nghiệp, thì cả hoàng đế lẫn nữ hoàng ở một thời vừa đã
qua, đều không còn nữa, Bà cần có (hoặc nhận được) một số động thái (ứng
xử) để tiếp tục cuộc sống và vai trò của minh, vẫn là người Thăng Long
và sống giữa hoàng cung Thăng Long, nhưng ở vào một giai đoạn mới, tiếp
theo: buổi đầu của thời /và triều/ Trần! Và thế là sử cũ chép gọn:
“Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm “Thiên Cực công chúa”, gả cho Trần Thủ
Độ, cho châu Lạng làm thang mộc ấp”!). Đây là việc trong dòng biên niên
sử về mùa Thu, tháng tám năm Bính Tuất (1226).
Từ năm 1226 này, Trần Thị Dung – trong
vai của một công chúa (tức em gái thượng hoàng, đồng thời là cô ruột
hoàng đế) phu nhân của Quốc thượng phụ Trần Thủ Độ, được cấp lợi tức để
sinh hoạt (tức: “thang mộc” = tắm gội) từ cả một châu (coi như một ấp
riêng) là “châu Lạng” (tức Lạng Sơn ngày nay) – rõ ràng là đã đoạn tuyệt
với quá khứ làm dâu nhà họ Lý, và thực sự trở thành như một người mẹ đỡ
đầu cho nhà Trần. “Linh Từ quốc mẫu” là danh hiệu cũng còn thấy ghi cho
bà trong sử cũ, nhưng không nói rõ khi nào thì bà được ai phong cho.
Nhiều người đã nghĩ rằng đây là danh hiệu mà Trần Thị Dung đã có được,
ngay từ cuối năm 1225 – đầu năm 1226, cùng lúc /và để đối sánh/ với hiệu
danh “Quốc thượng phụ” của Trần Thủ Độ, cũng được phong vào lúc ấy!
Nhưng ngay cả đến khi Trần Thủ Độ được phong tiếp làm “Thống quốc Thái
sư” từ năm 1234, thì vẫn chỉ thấy – ở những chỗ có liên quan đến Trần
Thị Dung – Sử cũ ghi về bà, hoặc là: “Phu nhân Trần Thủ Độ”, hoặc là:
“Thiên Cực công chúa” mà thôi. Chẳng hạn như ở câu sau đây, thuộc biên
niên sử về năm 1237: “Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài
Vương (Trần) Liễu, anh vua (Thái Tông Trần Cảnh) làm hoàng hậu Thuận
Thiên; giáng Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng, em gái Thuận Thiên) làm công
chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc
Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực (Trần Thị Dung) bàn
kín với nhau là: nên mạo nhận lấy đồ làm chỗ dựa về sau, cho nên mới có
lệnh ấy”)
Với dòng sử liệu này, người ta không chỉ
thấy là: cho đến hơn 10 năm sau khi làm “Người đỡ đẻ” – để cho ra đời
được triều đại nhà Trần, phu nhân của Trần Thủ Độ vẫn còn mang danh hiệu
“Thiên Cực công chúa”; mà, còn quan trọng hơn, là: trong vụ việc thay
đổi hoàng hậu cho vua Thái Tông Trần Cảnh, lâu nay nhiều người vẫn cho
là chủ mưu của Trần Thủ Độ, thì bây giờ, rõ ràng là c,ó cả sự tham mưu
của Trần Thị Dung! Vậy là, tâm đầu ý hợp cùng người thực quyền nắm mọi
việc chính sự ở buổi đầu thòi Trần, trong vai trò người vợ của vị Thái
sư Thống quốc Trần Thủ Độ, công chúa Trần Thị Dung hẳn đã là một nội
tướng (quốc) đích thực.
Một vài vụ việc nữa, như sau đây – không
thấy ghi niên đại, vì chỉ được chép trong sử cũ vào đoạn biên niên về
năm 1264, nhân nói về tính cách con người Trần Thủ Độ trong dịp ông qua
đời, mà ở đây, có những tình tiết liên quan đến Trần Thị Dung – đã hé
cho thấy mấy nét về bà, chủ yếu là qua những động thái có vẻ “nhi nữ
thường tình” ở thời gian bà làm “nội tướng (quốc)” này. Đó là – chẳng
hạn như – bà cũng đã từng “có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân
hiệu ngăn lại, (bèn) về dinh, khóc và mách với Thủ Độ rằng: “Mụ này làm
vợ ông, thế mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn như vậy đấy!) (nhưng Thủ Độ
lại thưởng cho người “ở chức thấp mà biết giữ đạo luật pháp” này); hoặc
như bà còn có cả một lần “xin riêng (với Trần Thủ Độ) cho một người làm
chân câu đương (tức: chức dịch cấp xã) (nhưng việc không thành, vì Trần
Thủ Độ đã biết tìm đường khu xử cho “công tư trọn vẹn” bằng cách bảo
người này rằng: “Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, nên
không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để
phân biệt với người khác!”, khiến người này phải “kêu van xin… thôi, mãi
mới tha cho…”).
Ngoài mấy chuyện có vẻ “nhi nữ thường
tình” như thế, thì, ở những trường hợp “quốc gia đại sự”, người ta đều
thấy Trần Thị Dung đã hành xử đúng với vị thế và vai trò của một “quốc
mẫu”, đặc biệt là trong lúc đất nước lâm nguy, khi lần thứ nhất, quân
Mông cổ kéo đến xâm lược, đầu năm 1258. Chiến lược thoát hiểm của triều
đình nhà Trần khi ấy, để cứu nguy dân tộc, là kế “thanh dã” (vườn không
nhà trống), thậm chí là còn cho giặc vào tạm chiếm cả kinh đô đất nước,
để rồi sẽ tạo thời cơ mà phản công, tiêu diệt! Buổi đầu thực hiện chiến
lược ấy, người phụ trách việc “sơ tán” hoàng gia, hoàng tộc và nhân sự
triều đình khỏi Thăng Long, chính là Trần Thị Dung! Hơn thế nữa, bà còn
là người đứng ra thu thập, tập trung quân khí ở nơi “sơ tán”, đưa dùng
vào trận đánh thắng lợi ở giai đoạn sau của cuộc kháng chiến! Rõ ràng,
đấy là một nữ “Chủ nhiệm tổng cục hậu cần” đầy công lao!
Chính sử thần Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ XV
nổi tiếng khắt khe, cũng phải hạ bút viết dòng sau đây, nhân bình luận
về Trần Thị Dung đứng ra cáng đáng một phần việc kháng chiến lần thứ
nhất của nhà Trần: “Công của bà giúp nhà Trần trong việc nội trị, thật
là nhiều!” Nhận định này, còn đi kèm với thông tin – lần đầu tiên được
biết – về vai trò của Trần Thị Dung, cũng còn có cả trong việc điều hòa
mâu thuẫn nội bộ nhà Trần, hồi năm 1237 nữa, mặc dù thông tin này chỉ
được viết ra trong đoạn biên niên sử về năm Kỷ Mùi (1259) – một năm sau
chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất – nhân sử cũ chép
việc: “Mùa xuân, tháng giêng, phu nhân Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu
Trần Thị mất”. Đó là đoạn “Lời bình” của sử thần Ngô Sĩ Liên
trước hết nói về ý nghĩa sự sinh tạo ra
những nhân vật trọng yếu buổi đầu triều Trần của Trần Thị Dung: “Con gái
bà là (Lý) Chiêu Hoàng nhường ngôi cho nhà Trần. (Cũng con gái bà là)
Thuận Thiên, lại làm hoàng hậu của (vua Trần) Thái Tông và sinh ra (vua
Trần) Thánh Tông. Yên Sinh vương (Trần Liễu) có hiềm khích với Thái Tông
(Trần Cảnh), Linh Từ đã điều đình hòa giải, lại tình nghĩa anh em như
xưa!”. “Lời bình” của sử thần Ngô Sĩ Liên, nhân việc Linh Từ quốc mẫu
Trần Thị Dung (mất) về trời, thế nào mà lại có câu kết thật hay về việc
trời đã sinh ra người phụ nữ này: “Thế mới biết trời sinh Linh Từ là để
mở nghiệp nhà Trần”!