Mỗi
khi Xuân về, dường như tâm tư con người lại thoáng phiêu diêu và cảm
thấy gần gũi hơn với cõi “hư sinh”, với kiếp đời đã qua, với các bậc
thánh thần. Trong sâu thẳm tâm hồn Việt và dòng chảy của tư duy dân
gian, Đức Thánh Trần-Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có vai trò rất đặc
biệt. Mỗi khi gặp điều gì bất an, lo lắng, hoặc mong ước điều gì đó,
người ta thường hay cầu viện đến tha lực linh thiêng của Ngài. Vậy nên,
hội đền Trần tổ chức vào tháng Giêng hàng năm luôn thu hút sự tham gia
đông đảo của khách hành hương khắp các vùng miềm trong nước và du khách
nước ngoài.
Đền Trần là tên gọi
chung của cụm di tích lịch sử-văn hoá nổi tiếng ở thành phố Nam Định,
tỉnh Nam Định, gồm: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch. Đền Thiên Trường thờ
14 vị vua nhà Trần; đền Cố Trạch thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn
cùng gia quyến của Ngài. Chùa tháp Phổ Minh cách đền Trần khoảng 300m về
phía tây, là nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông từng tu hành, thuyết pháp.
Đền Trần và chùa tháp Phổ Minh được xây dựng trên nền khu cung điện Thái
Thượng hoàng của nhà Trần xưa. Chùa tháp Phổ Minh không chỉ thờ Phật
như mọi ngôi chùa Việt khác, mà còn phối thờ Trúc Lâm tam tổ (Điều Ngự
Giác hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa, Thiền sư Huyền Quang) và
Nhị vị Vương cô Trần triều. Tục truyền, đỉnh tháp Phổ Minh là nơi lưu
giữ một phần “xá lỵ” của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Theo cổ lệ, hội đền Trần- đại lễ tháng
Giêng thường được tổ chức trong 3 ngày từ 14 đến 16. Hội được mở đầu vào
ngày 14 tháng Giêng bằng nghi thức rước kiệu “Ngọc lộ” từ chùa Phổ Minh
sang đền Thiên Trường. Trước đó, ông trưởng họ Trần đến trước hương án
thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông đặt tại toà Thượng điện làm lễ xin rước
bát nhang Phật hoàng về đền Trần hợp tế. Khi rước kiệu “Ngọc lộ” về đến
sân đền Thiên Trường, vị chủ tế kính cẩn rút 5 nén nhang ở bát nhang
kiệu “Ngọc lộ”, cắm vào bát nhang đặt trước thần vị vua Trần Nhân Tông
trong đền. Tiếp đến buổi trưa cùng ngày, tổ chức lễ rước bát nhang tổ họ
Trần và choé nước xuống đền phố Hàng Tiện-nơi thờ Đức Thánh Trần, tế
cáo một tuần rồi rước về đền Thiên Trường. Cũng trong ngày 14 này, dân
“hộ nhi tạo lệ” ở đền Bảo Lộc và đền Cố Trạch thực hiện nghi lễ rước
kiệu Đức Thánh Trần của bản đền sang đền Thiên Trường làm lễ chầu vua.
Lệ khai ấn “Trần triều” diễn ra vào đêm
14 rạng ngày 15 tháng Giêng. Ấn “Trần triều” thường ngày được bảo quản
cẩn trọng trong cung cấm đền Cố Trạch. Đúng giờ Tý (23h-1h), chủ tế dẫn
đầu đoàn tế quan, cùng đại diện dòng họ Trần, các bô lão địa phương với
đầy đủ nghi trượng, phường bát âm, cờ xí làm lễ rước ấn từ đền Cố Trạch
sang đền Thiên Trường, đặt ấn tại ban thờ công đồng, rồi làm lễ xin khai
ấn. Sau khi làm lễ xin đài được chấp thuận, vị chủ tế ngồi trang nghiêm
ở chiếu giữa, bồi tế dâng ấn và tập tờ điệp đặt phía trước một cách
trịnh trọng. Lúc này, chiêng trống nổi lên, tế chủ lần lượt đóng dấu son
ấn “Trần triều” lên các tờ điệp cho mọi người có nhu cầu đang vây quanh
vòng trong, vòng ngoài, chen chúc ngược xuôi. Người ta tin rằng những
tờ điệp có dấu ấn “Trần triều” này có khả năng giúp mọi người, mọi nhà
diệt trừ được tà ma, bệnh tật, tránh được mọi xui xẻo. Nhiều người quan
niệm ấn “Trần triều” chính là ấn lệnh mà Đức Thánh Trần ban cho, giúp
họ điều hành, thực thi công vụ trong năm được hanh thông, thuận lợi,
tránh được mọi rắc rối. Dân gian tin rằng: Đàn bà sinh sản đau yếu, con
gái hiếm muộn đều do bệnh Phạm Nhan làm, hoặc là bị thạch tinh cốt khí,
yêu ma qủy ám, hoặc là tiền kiếp phu thê ghen tuông mà thành bệnh. Người
có bệnh đem vàng hương, trầu rượu đến các cửa điện thờ Đức Thánh Trần
lễ bái, nhờ thanh đồng kêu Thánh trừ tà, đều linh nghiệm cả. Đối với
những đứa trẻ hay ốm đau, sài đẹn, dân gian cho là khó nuôi, thường được
bố mẹ đem “bán” cho Đức Thánh Trần trong vòng 12 năm, thậm chí người ta
còn đổi họ cho con mang họ Trần, bởi người ta tin rằng dưới sự bảo trợ
của Ngài đứa trẻ sẽ khoẻ mạnh và chóng lớn, tà ma quỷ dữ sẽ không làm
hại được nó. Thật ra, mức độ khỏi bệnh của những bệnh nhân đến đâu, vẫn
chưa được kiểm chứng, chỉ biết rằng niềm tin và tục lệ này đã tồn tại
hơn 7 thế kỷ. Theo dòng chảy của thời gian, tới tận bây giờ vẫn có người
bán khoán con cho Đức Thánh Trần, những người có bệnh vẫn đến đền Trần,
đền Bảo Lộc, đền Kiếp Bạc và những linh từ thờ Ngài ở khắp cả nước cầu
khẩn Ngài. Có lẽ, hiện tượng này chỉ có thể giải thích, kiến giải được
phần nào chủ yếu trông chờ vào “minh triết” và “ cái lý” của dân gian mà
thôi. Như rất nhiều vị thần linh khác, sự ra đời của Đức Thánh Trần
trong con mắt dân gian mang đầy vẻ huyền diệu và khác thường; đời truyền
rằng: “ Khi trước An Sinh Vương phu nhân nằm mơ thấy một ông thần “tinh
vàng tướng ngọc” tự xưng là Thanh Tiên đồng tử phụng mệnh Ngọc hoàng
xuống xin đầu thai, nhân thế có mang. Đến lúc sinh ra, Vương có hào
quang sáng rực cả nhà và có mùi hương thơm ngào ngạt”. Sách “Trần Đại
Vương bình Nguyên toàn biên” chép: “ Đại Vương huý là Quốc Tuấn, sinh
ngày 10 tháng 12 năm Kiến Trung thứ 2 (1226). Lúc đầu, Thiên đạo quốc
mẫu (Lý Thị Nguyệt-Thuận Thiên công chúa) mơ thấy một vị “Kim tinh ngọc
tưởng” nói là Thanh Y đồng tử phụng mệnh Ngọc hoàng Thượng đế trao cho
ấn kiếm, lại có “Tam bảo ngũ tài” nguyện làm con. Sau khi tỉnh dậy, Quốc
Mẫu có thai. Lúc sinh hào quang rực cả nhà, mùi hương toả khắp. Ngày
hôm sau, có đại sĩ gõ cửa xin gặp. Yên Sinh Vương ( tức Trần Liễu cha
của Trần Quốc Tuấn) nói : “Tiên sinh từ xa đến có việc gì?”. Đạo sĩ đáp:
“Đêm qua xem thiên văn có vì sao xa vào đây, vậy xin đến yết kiến”. Yên
Sinh Vương sai bế con ra cho đạo sĩ xem. Đạo sĩ nhìn dung mạo Quốc Tuấn
liền quỳ xuống bái và nói rằng: “Vị nhi đồng này ngày sau tất sẽ giúp
nước cứu đời, làm quốc gia rạng rỡ”. Nói xong không thấy đạo sĩ đâu
nữa”.
Ngoài lệ “Khai ấn” đầu năm, hội đền Trần
còn có lệ “phát lộc nước thánh” cho con cháu dòng họ Trần trên khắp thế
gian và tục tế cá “triều đầu” (cá quả), cá “long ngư” (cá chép) để nhắc
nhở mọi người không được quên nguồn gốc tổ tiên. Tất cả hoạt động hội
lễ linh thiêng này đều diễn ra trong không gian trải rộng giữa đền Trần
với sông Hồng (chủ yếu là khu vực bến sông Hữu Bị).