Thứ Hai, 4 tháng 6, 2018

Lời đề dẫn nhân ngày rước Tổ về nhà thờ mới năm 2000


Hôm nay ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức là ngày 21/1/2000), tại thôn Hoàng xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây, họ Trần Hoàng xá ta cùng họp tại từ đường của cả họ để ôn lại truyền thống dòng tộc. Lời đề dẫn này xin được dựa vào chúc thư của các cụ tổ đời thứ 9 Trần Quang Huy (Chi Giáp), Trần Hữu Vinh (Chi Ất). Bức di khảo của cụ tổ Trần Hữu Vinh (tức Hữu Chế - cụ được Triều Đại Nam ….(1820-1840) phong tước hầu: Thập Lý Hầu) viết: “chúc thư, khảo cảo (của họ ta) bị bọn cướp cướp mất cả” (những chữ để trong ngoặc kép là trích nguyên văn của bức di khảo của cụ Trần Hữu Vinh) “nên ta thưa với anh trai ta” (tức cụ thưa với cụ tổ Trần Quang Huy- chi Giáp) “rằng: phải viết phả” mà”viết phả thì phải viết việc lớn, nói những đầu mối quan trọng”. “Người ta gốc ở tổ, tổ thì phải dựa vào phả”.“đến khi Hiển Khảo ta (cha ta - tức là cụ tổ Trần Trọng Tiễn, đời thứ 8, cùng đời với cụ tổ Trần Quang Giám (chi Giáp) sinh ra đã có thiên tư, thi đậu nhị trường” và những “tộc phả, gia thư tự tay viết”. Nên anh em ta “ mừng thầm gốc rễ, tạm yêu, nối trước, mở sau”. Thế mà “ nào ngờ” lại xẩy ra “trộm hung, cướp dữ”, “tư trang mất đi quá nửa” “ Ký phả tan tác gấp đôi”. Than ôi, mất mát quá lớn không có thể lấy gì mà bù đắp được!
Tôi đến nay (tức cụ tổ Trần Hữu Vinh) tuổi đã “ tứ tuần”, có hồng phúc mà được “ tam đại đồng đường” nên đã đi đến Đại tôn, Tiểu tôn từ đường lấy đủ Giáp Chi, Ất Chi thực lạc. “ Song do những biến thiên của thời cuộc nên tổ tiên ta chỉ còn ghi được các bậc bề trên có hơn 100 năm, còn khoảng hơn 40 năm trở lại đây, thì anh em ta đã từng thấy, từng nghe. Do vậy, ta phải “ nghiên cứu rộng, sâu, nhiều đường tham khảo; từ cành đến cội, dò mạch, tìm nguồn” để “viết thành phả này”.

Đoạn trên đây cho họ ta hôm nay thấy được công trình của tổ tiên ta công phu biết nhường nào. Do không có đủ tài liệu để viết phả nên khi viết về cụ tổ đời thứ 1, tổ tiên ta chỉ dùng từ “Thượng Thượng tổ” chứ không dùng từ “Thuỷ tổ” hay “ Khởi tổ”.

Bức di khảo của cụ tổ Trần Hữu Vinh, sau khi đã được cụ tổ anh là Trần Quang Huy cho phép, viết tiếp: “ nhớ thủa Đông A xưa, cũng là một vọng tộc” có từ trước khi có tên xã, tổng Phương Đình, họ ta vẫn chỉ có một nhà thờ, đến nay vẫn do Trần Quang Mạch thờ phụng. (Ghi chú: Trần Quang Mạch là con trai Trần Quang Thiêm; Cụ Mạch đã có một con trai, đặt tên là Trần Quang Bách; Trần Quang Thiêm là anh ruột Trần Quang Huy), nhưng bất hạnh thay Trần Quang Thiêm chưa qua đời thì con trai (Mạch) và cháu đích tôn (Bách) đều lần lượt về nơi chín suối; (Biết không thể có con để nối dõi, Thiêm đã uỷ nhiệm cho em là Huy, kế trưởng.)

Tiếp theo bức di khảo, Trần Hữu Vinh đau đớn viết: “rồi đến thời Vĩnh Hựu (1735-1740), tình cốt nhục thân thẳng mà coi như thù địch, nên nhà cửa cách chia, có tẩm đường riêng biệt”.“ Rồi đến thời Thiệu Trị (1841-1847), cả họ tề tựu ở nhà thờ, cùng lý phụng thờ, hai nhà hợp tế”. “ Chi Giáp Trần Quang (Huy) là trưởng, Chi Ất “ Trần Hữu Quyền (Quyên) là trưởng” song “ thể hành chả được mấy” đã “ nhanh chóng bị phân liệu”. “ Mãi đến thời Tự đức” (1848-1883) “ lại  hợp tại bản đường “để “ ngược dòng mà tìm nguồn” “để khuyên nhủ cháu con, xét cho rõ ngọn nguồn, mà biết điều sau trước, trăm ngàn ngày như một, cho mãi đến muôn năm”.

Hôm nay, họ ta rước tổ về nhà thờ mới sửa sang xong, cùng nhau ôn lại truyền thống dòng tộc, thấm thía lới răn dạy của tiền liệt, xin kính thành vâng lời, mong tổ tiên chứng giám.

                                                Họ Trần – Hoàng xá