Đệ
nhất thượng thượng tổ, Quý ông họ Trần tên chữ là Phúc Nhân, sinh năm Canh Ngọ,
giỗ ngày 13 tháng 8. Đệ nhất Quý thổ tỷ, con gái thứ 2 họ Nguyễn, hiệu là Từ
Tâm, giỗ ngày mồng 2 tháng 10. Hai cụ Tổ có 1 con trai là Trần Phúc Lương. Vào
trước năm Vĩnh Hựu nhà Lê, cụ Thuỷ tổ Trần Phúc Nhân đến định cư ở làng Hoàng
Xá, không rõ từ đâu di cư đến. Mộ cụ Thủy Tổ táng tại cánh đồng Giữa, làng Đình
Tràng, hiện nay mộ Cụ Tổ ở ngay bên phải đường 21B hướng Hà Đông - Vân Đình,
trước cổng sân Vận động Ứng Hòa, cách ngã ba rẽ vào làng khoảng 300m.
ĐỜI
THỨ HAI: CỤ THỨ TỔ TRẦN PHÚC LƯƠNG
Cụ
Tổ đời thứ 2, Quý ông họ Trần tự Phúc Lương, giỗ ngày mồng 10 tháng 3. Cụ Tổ bà
đời thứ 2, con gái lớn họ Nguyễn, hiệu Từ Am, giỗ ngày mồng 9 tháng 5. Cụ Thứ tổ
Trần Phúc Lương có hai người con trai là Trần Phúc Thịnh và Trần Phúc Độ.
ĐỜI THỨ BA: Đến đời thứ 3 họ Trần
hình thành 2 chi. Chi Giáp là chi trưởng, cụ Trần Phúc Thịnh là tổ Chi Giáp.
Chi Ất là chi thứ thờ cụ Trần Phúc Độ. Cụ Trần Phúc Độ là con trai thứ của cụ
Trần Phúc Lương, cụ Phúc Độ mất ngày 09/3. Con cháu Chi Ất lấy ngày đó là ngày
giỗ Tổ bản Chi. Mộ cụ táng tại cánh đồng làng Hậu Xá, xã Phương Tú, huyện Ứng
Hòa. Nhà thờ Chi Ất liền kề với nhà thờ họ Trần Hoàng Xá. Cụ Tổ bà Hoàng Thị Từ
Hiền, mất ngày 11/01. Cụ Phúc Độ có 2 con trai là cụ Phúc Chân và cụ Phúc Hoàn.
ĐỜI THỨ 4: Cụ Trần Phúc Chân là
con trai trưởng của cụ Phúc Độ, mất ngày 29/2. Mộ cụ Phúc Chân táng tại đồng
làng gần mộ cụ Phúc Ân. Cụ bà là Đỗ Thị Từ Ân mất ngày 05/5, mộ tại xã Hoa Âm tức
Thanh Ấm. Cụ Phúc Chân sinh ra cụ Thuần Chất và cụ Phúc Ân. Cụ Thuần Chất là Tổ
phân chi Trưởng Ất, cụ Phúc Ân là Tổ phân chi Tiểu Ất. Năm 1996 chi Ất tôn tạo
mộ hai cụ, xây chung lại thành một ngôi mộ đôi. Năm 2014 mộ hai cụ được ốp gạch
men do gia đình cháu Trần Ngọc Tiến Trưởng ngành Ôn Chất công đức.
ĐỜI THỨ 5: Cụ Trần Phúc Ân con
trai thứ cụ Phúc Chân là Tổ phân chi Tiểu Ất, mất ngày 10/7. Cụ Tổ bà chánh thất
Đặng thị hàng tam (con gái thứ ba nhà họ Đặng), hiệu là Trinh Tĩnh, mất ngày
10/12, táng ở cánh đồng xứ Bảy Bãi. Hai cụ sinh ra cụ Trần Phúc Chính và cụ Trần
Đức Nghiệp. Mộ cụ Phúc Ân đã chuyển từ cách đồng xứ Bẩy Bãi (Thể Găng) vào
Nghĩa trang làng Hoàng Xá ngày 20/10/1979.
ĐỜI THỨ 6: Cụ Trần Đức Nghiệp,
con trai thứ 2 cụ Trần Phúc Ân, là Tổ ngành Đức Nghiệp, mất ngày 20/12, thờ tại
39 Châu Long, Hà Nội, cụ bà là Hoàng Thị Diệu Quảng. Cụ Trần Đức Nghiệp sinh 3
con trai là: Hữu Vĩnh, Bách Diệp, Thuần Trực, con trai nuôi là Hữu Nguyên và 4
cụ con gái, 3 cụ xuất giá còn cụ thứ 4 là Từ Thâm mất
sớm. Mộ cụ Đức Nghiệp được di táng ngày 20/10 năm Kỷ Mùi 1979 về khu mộ ngành Đức
Nghiệp tại nghĩa trang làng Hoàng Xá. Tôn tạo khu mộ từ 25/10 đến 02/11 (tính
theo lịch âm).
ĐỜI THỨ 7
1.
Cụ Trần Hữu Vĩnh kế trưởng, con Trưởng cụ Đức Nghiệp.
Cụ bà là Đặng Thị Từ Thái. Cụ Hữu Vĩnh sinh được 4 trai: Hữu Hoàn, Hữu Chúc, Hữu
Miên, Hữu Mang và một gái là Thị Nhừ.
2.
Cụ Trần Bách Diệp, con trai thứ 2 cụ Đức Nghiệp,
cụ bà là Vũ Thị Diệu Điền. Cụ Bách Diệp sinh được 1 con gái là Thị Khiếu.
3.
Cụ Trần Thuần Trực, con trai thứ 3 cụ Đức Nghiệp,
cụ bà là Nguyễn Thị Hưởng. Cụ Trực phạt tự.
4.
Cụ Trần Hữu Nguyên, con nuôi cụ Đức Nghiệp, gốc
họ Đặng, cụ bà là Đặng Thị Từ Thành. Cụ Nguyên sinh được 3 trai: Cả Tứ, Hai Cường,
Hữu Khang.
5.
Trần Thị KD1, con gái cả cụ Đức Nghiệp
6.
Trần Thị KD2, con gái thứ 2 cụ Đức Nghiệp
7.
Trần Thị KD3, con gái thứ 3 cụ Đức Nghiệp
8.
Trần Thị Từ Thâm, con gái thứ 4 cụ Đức Nghiệp, mất
sớm.
ĐỜI THỨ 8
1.
Cụ Trần Hữu Hoàn tức Nghiêm, con trai trưởng cụ
Hữu Vĩnh, cụ vợ cả là Đặng Thị Toàn, cụ vợ hai là Nguyễn Thị Điền. Cụ vợ cả
sinh được hai trai là Hữu Phồn, Hữu Khải, một con gái nuôi là Thị Tặng và một
con gái Thị Phiền mất sớm. Cụ vợ hai là Nguyễn Thị Điền không có con.
2.
Cụ Trần Hữu Chúc tức Cửu, con trai thứ 2 cụ Hữu
Vĩnh, cụ bà là Cát Thị Diệu Trà, phạt tự.
3.
Cụ Trần Hữu Miên, con trai thứ 3 cụ Hữu Vĩnh, phạt
tự.
4.
Cụ Trần Hữu Mang, con trai thứ 4 cụ Hữu Vĩnh, phạt
tự
5.
Cụ Trần Thị Nhừ (Nữa), con gái út cụ Hữu Vĩnh.
6.
Cụ Trần Thị Khiếu/ Khíu, con gái cụ Trần Bách Diệp.
7.
Cụ Trần Hữu Tứ, còn
gọi là Cả Tứ, con trai cả của cụ Hữu Nguyên, mất sớm.
8.
Cụ Trần Hữu Cường, còn gọi là Hai Cường, con
trai thứ hai của cụ Hữu Nguyên, vợ là Đặng Thị Tư, phạt tự.
9.
Cụ Trần Hữu Khang, con trai thứ 3 cụ Hữu Nguyên,
vợ cả là Đặng Thị Bích có con gái là Thị Thông, vợ hai là Cao Thị Vĩ có hai con
gái là Thị Đoành, Thị Cuộc.
ĐỜI THỨ 9:
1.
Cụ Trần Hữu Phồn, con trưởng Cụ Hữu Hoàn. Cụ bà
là Đặng Thị KD sinh được 4 trai: Hữu Tán, Hữu Huệ, Hữu Vân, Hữu KD. Mộ cụ Phồn
táng tại làng Tảo Khê (do ông Chánh Văn và Hương Học con cụ Từ /Cừ ở Tảo Khê
trông nom ruộng). Ngày 16/12 năm Nhâm
Thìn 2012, mộ cụ Phồn được di táng về khu mộ ngành Đức Nghiệp. Mộ cụ bà táng ở
đồng làng được di táng về khu mộ ngành Đức Nghiệp ngày 20/10 năm Kỷ Hợi 1979.
2.
Cụ Trần Hữu Khải, con trai thứ 2 Cụ Hữu Hoàn, vợ
là Cụ Nguyễn Thị Tuế. Phạt tự.
3.
Trần Thị Tặng, con nuôi cụ Trần Hữu Hoàn.
4.
Trần Thị Phiền, con gái út cụ Trần Hữu Hoàn, mất
sớm.
5.
Trần Thị Thông, con gái cả cụ Hữu Khang
6.
Trần Thị Đoành, con gái thứ 2 cụ Hữu Khang, mất
sớm.
7.
Trần Thị Cuộc, con gái thứ 3 cụ Hữu Khang, mất sớm.
ĐỜI THỨ 10:
1.
Trần Hữu Tán tức cụ Lý Tán, con cả cụ Hữu Phồn,
thừa kế trưởng ngành Đức Nghiệp đời thứ 10. Cụ mất ngày 25/10, mộ tại Thể Găng,
đồng làng. Cụ bà là Cát Thị Khối, mất ngày 20/ 01, thọ 90 tuổi, song táng với cụ
ông. Năm 1979 mộ hai cụ được di táng về khu mộ ngành Đức Nghiệp, nghĩa trang
làng Hoàng Xá. Cụ Hữu Tán sinh được cụ Hữu Phương, cụ Hữu Vi và cụ con gái là
chị cụ Hữu Vi.
Cụ
Hữu Tán làm lý trưởng ba thôn và dậy học trò chữ nho. Cụ bà họ Cát. Truyền lại,
hồi đó gia đình cũng có vẻ phong lưu, nên cụ bà bị giặc Tù Khẩu bắt lên làng
Chuông, cắt xén tai và bắt mang tiền lên chuộc. Cụ ông làm Lý trưởng phải bù
thuế cho dân một vụ và cho dân một vụ thuế. Hai cụ đã làm nhà thờ cho bên ngoại
(họ Cát), mua đất làm nhà ngói, xây gạch (nay là chỗ đất ở của cụ Trần Hữu Tài
sau Đình làng). Dòng dõi họ Cát sau này chỉ còn có một người thừa kế là Nguyễn
Kim Hoàn (lấy họ bố Dượng) ra Hà Nội làm con nuôi họ Nguyễn, năm 1954 di cư vào
Nam cùng với vợ và 4 - 5 người con trai.
2.
Trần Hữu Huệ, con trai thứ 2 của cụ Hữu Phồn, mất
ngày 17/ 7, cụ bà không nhớ họ tên, mất ngày 05/ 01. Cụ Huệ sinh được ba con
gái: cụ Thị Kuệ, cụ Hương Lều và cụ Thành Vật (cụ sinh ra con là Đông ở Thành Vật).
3.
Trần Hữu Vân, con trai thứ 3 của cụ Hữu Phồn, mất
sớm, phạt tự.
4.
Trần Hữu KD, con trai thứ 4 của Cụ Hữu Phồn, phạt
tự. Cụ bà không nhớ họ tên. Cụ có người con gái lấy chồng họ Thân ở xã Yến Vĩ,
huyện Yên Phong, Bắc Ninh (quê cụ Đồ Quỳ), có con là ông Thân Văn Hạp.
ĐỜI THỨ 11:
1.
Trần Hữu Phương tức cụ Nhiêu là con trưởng cụ Hữu
Tán, mất ngày 09/ 01, cụ bà là Cao Thị Đáy, mất ngày 29/ 5, mộ hai cụ song táng
tại Thể Găng (đồng làng). Năm 1979 di táng về khu mộ nghành Đức Nghiệp nghĩa
trang làng Hoàng Xá. Cụ Nhiêu Phương sinh được 2 con trai và 5 con gái. Hai con
trai là: Hữu Khương, Hữu Tảo, 1 con trai nuôi là Hữu Chi. Năm con gái là: Thị
Nhớn, Thị Dù, Thị Quy, Thị Quỳ, Thị Mùi.
Cụ
Nhiêu Phương dạy học trò chữ nho, không bơi bời gì. Về già có nghiện rượu, hơi
khó tính. Việc bà con làng xóm thì hết lòng trông nom, nhưng việc nhà thì phó mặc
cụ bà. Cụ bà Cao Thị Đáy là người xóm làng, về dòng dõi nhà cụ Cao Vân Trù tức
Cống. Cụ bà lúc trẻ làm ruộng, sau bán ruộng kinh doanh hàng cơm, tính nết điềm
đạm, ôn thuần. Hoàn cảnh gia đình về quãng giữa hơi túng bấn, sa sút.
2.
Trần Thị KD, còn gọi là cụ Tổng Dục, lấy chồng họ
Cao cùng làng, làm vợ lẽ, sinh được một gái là cụ Ba Tốn lấy chồng ở Hải Phòng.
Con cháu ngày nay là: Tường, Vân, Bốn và một con gái là vợ Phó Cảnh ở Bạch Tuyết,
Mỹ Đức. Vợ cả cụ Tổng Dục sinh ra bố ông Cả Vàng và ông Ký Cận.
3.
Trần Hữu Vi tức cụ Chánh Bất là con trai thứ của
cụ Lý Tán, mất ngày 08/ 8. Vợ cả là Cao Thị Bích mất ngày 16/ 6. Cụ Bích có 4
người con gái: Thị Bất, Thị Nhỡ, Thị Vẹt, Thị Sáo. Vợ hai là Lê Thị Dăm, mất
ngày 01 tháng 4, người xã Nguyễn Xá, có 2
con trai: Hữu Hà, Hữu Cẩn, 1 con gái là Thị Sẻ
4.
Trần Thị Kuệ, con gái cả cụ Hữu Huệ, là vợ hai cụ
Đặng Văn Hộ có con gái là Thị Bầu lấy chồng là Đặng Đình Thân (tức cụ Cừ, có
các con là Thị Chư, Đình Cừ, Thị Hào, Thị năm, Đình Lân, Thị Cống, Đình Lâm,
Đình Đông, Thị Thịnh).
5.
Trần Thị KD1, còn gọi là cụ Hương Lều, là con
gái thứ 2 cụ Hữu Huệ, lấy chồng họ Cao người cùng làng, có con trai là Cao Văn
Ngưỡng.
6.
Trần Thị KD2, còn gọi là cụ Thành Vật, là con
gái thứ 3 của cụ Hữu Huệ. Chồng người Thành Vật, có con trai tên là Dong.
7.
Trần Thị KD3, con gái của cụ Trần Hữu KD. Lấy chồng
họ Thân người xã Yến Vĩ, huyện Yên Phong, Bắc Ninh (quê cụ Đồ Quỳ), có con là
ông Thân Văn Hạp.
ĐỜI THỨ 12:
1.
Trần Thị Nhớn, tức Thị Bê, con gái cả cụ Hữu
Phương, mất ngày 24/ 4, cụ ông là Nguyễn Tất Liễn cùng làng (mất 23/8), con là
Nguyễn Tất Phú tức ông Bê (mất 17/8, sinh Cả Hào, Hai Hùng…), Hai Dổm, Ba Bung,
Tư Châu, Năm Ninh, cụ bà cả Tỵ, Sáu Thứ.
2.
Trần Thị Dù, tức cụ Gộc, con gái thứ 2 cụ Hữu
Phương, mất ngày 15/ 6, cụ ông là Đặng Tiến Ngốc người cùng làng, các con là Lý
Gộc tức Lý Bưởi, Thị Thạch tức Cụ Đàm, bà Phó Thịnh tức Phó Vượng.
3.
Trần Hữu Khương, tức Cả Khương, thường gọi Cụ Thủ,
là con trai trưởng cụ Hữu Phương, sinh năm 1879, mất ngày 18/ 12 năm Quý Mão
1963 tại 94 Phố Cửa Bắc, Hà Nội, thọ 85 tuổi. Mộ táng tại Nghĩa trang Thành phố
Hà Nội ở Huyện Bất Bạt, Hà Tây sau cải táng về nghĩa trang làng Hoàng xá. Cụ bà
là Đặng Thị Ích, sinh năm 1881, mất ngày 14/ 6 năm Quý Tỵ 1953 tại 20 Lê Đại
Hành, Hà Nội, thọ 73 tuổi. Mộ táng tại Nghĩa trang Thành phố Hà Nội (Bất Bạt,
Hà Tây) cạnh mộ cụ ông sau cải táng về nghĩa trang làng Hoàng xá. Hai cụ sinh
được 9 người con, 3 trai, 6 gái: Hữu Tần tức Giáo Tần, Thị Nhuần, Thị Quyến, Hữu
Cần, Hữu Mẫn, Thị Xuyến, Thị Bê, Thị Tuyến, Thị Thanh.
Cụ
Khương làm thủ quỹ làng (1925-1927) nên gọi là Cụ Thủ. Thủa còn trẻ làm ruộng
(ruộng nhà có độ 1 mẫu). Gia đình túng thiếu nên khi còn ít tuổi đời sống gia
đình khó khăn, túng thiếu. Sau Cụ thôi làm ruộng chuyển sang làm hàng mã rồi
chuyển sang buôn bán tạp hoá đến năm gần 60 tuổi, nhờ đó kinh tế gia đình khá dần.
Tính nết Cụ ôn hoà, điềm đạm, nghiêm túc nhưng cũng có điều hơi khó khăn từng
điểm. Có trường hợp tỏ ra thiếu cương quyết, mềm yếu, cả nể. Cụ không hút thuốc,
cờ bạc. Có một thời gian ngắn cũng có đi chơi cô đầu những cũng chỉ để biết,
không ham mê. Uống rượu, trà nhưng dùng điều độ, không nghiện. Cụ hay xem sách
báo và chơi cây cảnh, sửa sang nhà cửa. Giao du ngoài bình thường, không bê
tha. ăn mặc sinh hoạt thận trọng, ít dùng thuốc. Đối với con cháu, ít khi đánh
đập, chửi mắng, chỉ lấy lời lẽ răn dậy, cùng lắm mới nói nặng lời. Đối với họ
hàng, anh em cũng như ruột thịt, hết lòng thương yêu, săn sóc, đùm bọc. Đối với
làng nước, nhũn nhặn, tận tâm chăm lo công việc, nên ai cũng có lòng mến nể. Cụ
Đặng Thị Ích là con gái thứ hai cụ Đặng Đình Phì (người cùng làng) và cụ bà
Thân Thị Chuyên (người làng Yên Vĩ, Yên Phong, Từ Sơn, Bắc Ninh).
4.
Trần Hữu Chi, con nuôi cụ Hữu Phương, gười làng
Đống Lau cùng phủ. Cụ làm con nuôi cụ Nhiêu Phương từ thủa nhỏ, nhà ở miếng đất
giữa nhà cụ Cả Khương và cụ Hai Tảo (cạnh Đình), mất ngày 01/4, thọ ngoài 60 tuổi.
Cụ bà người ở đâu và mất ngày nào không nhớ rõ. Cụ Chi có con trai là Hữu Khoát
mất năm ngoài 20 tuổi chưa có vợ con và 1 gái là Đỗ Chị tức Thị Nương.
5.
Trần Thị Quy tức Cụ Đôi, con gái thứ 3 cụ Hữu
Phương, mất ngày 23/01, cụ ông là Nguyễn Văn Đối người cùng làng, các con là Cả
Đôi, Hai Phúc.
6.
Trần Thị Quỳ tức Cụ Chàng, con gái thứ 4 cụ Hữu
Phương, mất ngày 11/7, cụ ông là Đặng Viết trụ người thôn Đình Tràng, mất 03/4.
Các con là Thị Chàng tức Cả Lê, Thị Lùn tức Tư Cáo, Cả Trượng và Hai Hãn.
7.
Trần Hữu Tảo tức cụ Hai Tảo, con trai thứ 2 cụ Hữu
Phương, mất ngày 29/5. Cụ bà là Đặng Thị Xích, mất ngày 20/02. Mộ hai cụ táng tại
phần mộ ngành Đức Nghiệp, nghĩa trang làng Hoàng xá, Vân Đình. Cụ Tảo sinh được
5 trai, 4 gái. Năm trai là: Cả Tài, Hai Lộc, Ba Thọ, Tư Khang, Năm Ninh. 4 gái
là: Thị Hoài, Thị Sâm, Thị Thục, Thị Tám. Cụ Hữu Tảo còn được gọi là cụ Nhang Tảo,
dáng người hơi thấp, gầy, nghiện thuốc phiện. Tính tình nghiêm khắc, cẩn thận,
sạch sẽ, chi tiết, tiết kiệm, chăm làm. Tối thường ít ngủ, hay dậy sớm. Là con
nhà nông, kinh tế vào loại khá trong làng, nhà có hơn chục mẫu ruộng, có thuê
4-5 tá điền, song cụ đã sớm có đầu óc kinh doanh. Nhà gần chợ trâu, cụ đã tham
gia mua bán trâu và làm môi giới mua bán trâu. Cụ còn buôn
bán gỗ: vào chợ Vài, chợ Ải huyện Mỹ Đức mua gỗ, đưa bè gỗ theo đường
sông, về bán tại chợ Cầu Chỗ Vân Đình. Cụ chăm lo con cái theo đường học hành,
và định hướng cho các con theo con đường kinh doanh. Các con trai được cho đi học
trường Phủ. Các con gái thì được các anh dạy học tại nhà. Nhờ được giáo dục, học
hành và có định hướng của bố nên cả tám người con của cụ khi trưởng thành không
làm nghề nông mà đều có nghề nghiệp và có cuộc sống khá dễ chịu.
8.
Trần Thị Mùi tức Cụ Cựu, con gái út cụ Hữu
Phương, mất ngày 10/01, chồng là Nguyễn Hạ Hội người làng Lương xá. Con là Cả
Giới mất 09/8, Thị Chuột, Thị Sẹo tức Ba Gáo ở Tảo Khê, Thị Tý tức Ba Nhiên ở
Hoàng xá, Thị Chín tức Hai Tằng ở Lương Xá.
9.
Trần Thị Bất con gái cả cụ Hữu Vi, mất 04/02, chồng
là Cao Văn Vân, con cháu là Cao Dụ Dân.
10. Trần
Thị Nhỡ con gái thứ 2 cụ Hữu Vi, mất ngày 04/8, chồng là Đặng Văn Bạn tức trưởng
Bạn, con cháu là trưởng Mới.
11. Trần
Thị Vẹt con gái thứ 3 cụ Hữu Vi, sinh 1890, chồng là Nguyễn Hữu Bá tức Nhiêu
Bá, ở xã Vân Đình (con là Cốc, Quốc).
12. Trần
Thị Sáo con gái thứ 4 cụ Hữu Vi, sinh năm 1898, chồng là Dương Tự Ấp, tức cụ
Hai Ấp ở xã Vân Đình, làm mục sư đạo Tin Lành, đại biểu Quốc hội, cư trú tại Hà
Nội (con là Thị Lộc tức Vũ Ngọc, Thị Tài tức Vũ Nghiên và Thị Năng tức Vũ Đức
Lý).
13. Trần
Hữu Hà tức cụ Lý Sông, con trai cụ Hữu Vi kế trưởng, mất ngày 18/7, mộ táng cạnh
sân Vận động TT Vân Đình. Cụ Hà có hai vợ: cụ Bà cả Đặng Thị Nhận có một con
gái Thị Đởm mất khi 10 tuổi. Cụ Bà hai Hoàng Thị Hào có 05 con: Hữu Hán, Thị Hồng,
Hữu Phú, Thị Huyền, Quốc Thịnh. Cư Trú: làng Hoàng Xá, Vân Đình.
14. Trần
Hữu Cẩn tức Giáo Cẩn, con trai thứ 2 cụ Hữu Vi, mất ngày 17/9 năm 1935, hưởng
dương 27 tuổi. Phạt tự.
15. Trần
Thị Sẻ con gái thứ 5 cụ Hữu Vi, mất năm 1928, hưởng dương 16 tuổi.
ĐỜI THỨ 13
1.
Cụ Trần Hữu Tần tức Giáo Tần, con trai trưởng cụ
Hữu Khương, sinh năm 1901, mất ngày 21/3 năm 1928. Vợ cả là
Cao Thị Gắm sinh năm 1899, mất ngày 14/4. Hai cụ có 1 con trai (chết yểu) và 1
con gái là Thị Hồng tức Chánh Giám. Sau khi sinh thì cụ Bà mất. Sau khi cụ Bà mất,
Cụ lấy em ruột cụ Gắm là Cao Thị Son làm kế. Sau Cụ Son tái giá, lấy làm lẽ người
cùng làng Đặng Giang là Chánh Kỳ. Về già cụ về mất ở sinh quán.
Cụ Giáo Tần là con cả Cụ Hữu
Khương, là giáo viên tân học đầu tiên ở làng,
học lớp sư phạm Hà Nội, sau khi ra trường Cụ được bổ nhiệm về dậy ở trường Đông
Lao, Hoài Đức, sau chuyển về trường Trinh Tiết, Mỹ Đức. Ở Trinh Tiết, Cụ vừa dậy
học vừa buôn bán, tậu đất, làm nhà ngói, gây một cơ sở ở đó. Cụ có tư tưởng cải
lương, cùng với ông cậu thúc bá là cụ Cao Ngọc Cận tức Ký Cận lập ra Hội Nông
Công Thương tương tế ở làng. Tính nết ôn hoà, khái trực, giao du rộng. Vì lao lực
quá độ nên sau bị bệnh lao mất sớm.
2.
Trần Thị Nhuần, con gái cả của Cụ Hữu Khương, mất
ngày 24/6 khi còn ít tuổi. Mộ di táng về khu mộ ngành Đức Nghiệp ngày 10/10 năm
Kỷ Mùi 1979.
3.
Trần Thị Quyến, con gái thứ 2 của Cụ Hữu Khương,
sinh năm 1906, mất ngày 26/4. Chồng là Hoàng Văn Duyệt tức Cả Duyệt người cùng
làng, có các con là: Thị Kình. Thị Thanh, Thị Yến, Văn Long (ở Tân Mai, Hà Nội),
Thị Tiến, Văn Luân (con bà hai).
4.
Trần Hữu Cần tức Thông Cần, con trai thứ 2 của cụ
Hữu Khương. Do cụ Giáo Tần có con trai mất sớm nên cụ Hữu Cần được kế trưởng
ngành Đức Nghiệp. Cụ sinh năm 1909, mất ngày 03/10 năm Canh Ngọ 1990, tại 39
Châu Long, Hà Nội, thọ 83 tuổi. Mộ táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá Vân Đình.
Cụ bà là Đặng Thị Tâm (tức Tôm) nên người cùng thế hệ thường gọi là bà Thông
Tôm. Cụ Tâm sinh năm 1910, mất ngày 01/6 năm Kỷ Mão 1999, là con gái đầu lòng của
cụ Đặng Văn Vấn (tức Bá Vấn) và cụ bà Nguyễn Thị Lươn (cụ Bá Hai) đều là người
cùng làng Hoàng Xá. Hai cụ sinh được 4 trai, 3 gái. Bốn con trai là: Hữu Kiểm,
Hữu Thảo, Hữu Nhượng, Hữu Tiến. 3 con gái là: Thị Lồng, Thị Lư, Thị Yến. Cư
trú: Châu Long, Hà Nội.
5.
Trần Hữu Mẫn, con trai thứ 3 của cụ Trần Hữu
Khương, sinh năm 1911, mất ngày 13/7/1979, thọ 69 tuổi. Cụ bà là Đỗ Thị Chỉ,
sinh năm 1915, mất ngày 13/7/1998. Mộ hai cụ táng tại khu mộ ngành Đức Nghiệp,
nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình. Cụ bà là con gái thứ 2 của cụ Ký Chất. Cụ
Ký bà là con gái cụ Chủ, là chị cụ Bá Vấn. Hai cụ sinh được 3 trai, 4 gái: Hữu
Dụng, Thị Châu, Hữu Đức, Thị Hợi, Hữu Tam, Thị Nhã và Thị Bẩy. Cư trú: Hà Nội.
Cụ Ba Mẫn cùng với cụ Cả Tài đã dịch bản Gia phả của họ ra chữ quốc ngữ, hai cụ
đã viết tiếp Gia phả của họ và chuyển tài liệu này cho các chi, ngành trong họ
để biết và lưu giữ.
6.
Trần Thị Xuyến, tức cụ Ba Nhiên, con gái thứ 3 của
cụ Hữu Khương, sinh năm 1913, mất 22/8 năm 1964. Chồng người cùng làng là Đặng
Đình Nhiên. Các con là: Đình Liêm, Đình Thanh, Đình Tĩnh, Thị Thoa, Đình An,
Đình Tùng, Thị Oanh. Cư trú: làng Hoàng xá.
7.
Trần Thị Lành tức cụ Thị Bê/ cụ Ba Trung, con
gái thứ 4 của cụ Hữu Khương, sinh năm 1915, mất ngày 19/5 năm Quý Sửu 1973,
mộ táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá. Chồng người cùng làng là Đặng Văn
Trung, sinh 1911, mất 06/12/2008. Có con trai là ông Đặng Văn Khiết, vợ ông Khiết
là Thị Dung. Cư trú Hà Nội.
8.
Trần Thị Tuyến, tức cụ Hai Cát, con gái thứ 5 của
cụ Hữu Khương, sinh năm 1917, mất 18/10 năm 2002. Chồng là Trương Văn Cát, sinh
năm 1917, mất 03/8 năm 2007. Có các con là: Văn Quý, Thị Vân, Thị Lan, Văn Thịnh,
Thị Liên, Thị Loan, Thị Nguyệt, Văn Tường văn Hải, Văn Vinh, Văn Hiển. Cư trú:
Bạch Mai, Hà Nội.
9.
Trần Thị Thanh, tức cụ
bà Cả Tục, con gái thứ 6 của cụ Hữu Khương, sinh năm 1922, mất 06/2 năm
Nhâm Dần 2022, chồng là Cao Bùi Tục, sinh 1919, mất 20/1 năm Giáp Thân 2004,
người cùng làng. Có các con là: Bùi Trí, Bùi Dũng, Thị Hạnh, Bùi Thành, Bùi
Kiên, Thị Mai, Bùi Nam. Cư trú: Thái Thịnh 2, Hà Nội.
10. Trần
Hữu Khoát, con trai của cụ Trần Hữu Chi là con nuôi của cụ Hữu Phương, phạt tự.
11. Trần
Thị Hoài, con gái cả cụ Hai Tảo, sinh năm 1911, mất ngày 28/9 năm Ất Tỵ 1965,
thọ 54 tuổi, làm nghề thợ may. Cụ Hoài cùng với em ruột là cụ Cả Tài mở tiệm
may Âu phục tại Hải Phòng và Hà Nội. Chồng là Nguyễn Gia Am, tức Ba Am, người
cùng làng, mất ngày 18/8 làm nghề thợ may sau tham gia kháng chiến chống
Pháp là viên chức nhà nước nghỉ hưu. Hai cụ sinh được 4 trai, 6 gái. 4
trai là Gia Hiểu, Ngọc Hảo, Trần Quang, Trần Tính; 6 gái là: Thị Nhung, Trần Hải,
Trần Toán, Thị Yến, Thanh Nga, Thanh Bình. Cư trú: ngõ Phan Huy Chú, Hà Nội.
12. Trần
Hữu Tài, tức Cả Tài, con trai trưởng cụ Hữu Tảo, sinh năm Quý Sửu 1913, mất
ngày 12/11 năm Ất Sửu 1985, thọ 73 tuổi. Vợ là Đỗ Thị Bún, sinh năm Ất Mão
1915, mất ngày 07/7 năm Giáp Thân 1944. Cụ Thị Bún là con gái lớn cụ Đỗ Đặng Chữ
tức Lý Tầu, người cùng làng và cụ Nguyễn Thị Bật- người làng Bặt (dòng họ Nguyễn
Thượng Hiền). Mộ hai cụ táng tại khu mộ ngành Đức Nghiệp, nghĩa trang làng
Hoàng Xá, Vân Đình. Hai cụ sinh được hai trai, một gái: Thị Bính, Hữu Lợi, Hữu
Hạnh. Cư trú: phố Nhà Thờ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cụ Cả Tài cùng với chị là Thị
Hoài mở tiệm may Âu phục tại Hải Phòng và Hà Nội. Năm 1949 cụ đi bộ đội chống
Pháp, năm 1972 nghỉ hưu với hàm Trung úy. Cụ Cả Tài đã cùng với cụ Ba Mẫn dịch
bản Gia phả của họ ra chữ quốc ngữ, hai cụ đã viết tiếp Gia phả của họ và chuyển
tài liệu này cho các chi, ngành trong họ để biết và lưu giữ. Cụ Cả Tài là người
sống đức độ, tình cảm, luôn quan tâm giúp đỡ đến anh em họ hàng và bà con xóm
làng, được mọi người trong họ ngoài làng yêu quý.
13. Trần
Hữu Lộc tức Hai Lộc, con trai thứ 2 cụ Hữu Tảo, sinh năm Đinh Tỵ 1917, mất ngày
25/9 năm Bính Thìn 1976, thọ 60 tuổi. Vợ là Nguyễn Thị Mý, sinh năm 1921, mất
ngày 09/8 năm 1999. Mộ hai cụ táng tại khu mộ ngành Đức Nghiệp, nghĩa trang
làng Hoàng Xá, Vân Đình. Cụ Mý là con gái cả cụ Nguyễn Hữu Chi (Giáo Chi), người
làng Thổ Khối, Cự Khối, Gia Lâm. Hai cụ sinh được 4 trai, 2 gái: Thị Bổng, Hữu
Hiệp, Hữu Quỳnh, Hữu Giao, Hữu Thuận, Thị Nguyệt. Cư trú: phố Nhà Thờ, Hoàn Kiếm,
Hà Nội. Cụ Hai Lộc từng học tại trường Kỹ nghệ Quang Trung Hà Nội, làm nghề thợ
mộc, mở xưởng đồ mộc khá lớn tại Hà Nội. Cụ là người
ham làm việc, thích kỹ thuật, sống tình cảm với họ hàng và xóm làng.
Cụ bà làm nghề buôn bán tại chợ Đồng Xuân, Hà Nội.
14. Trần
Thị Sâm, thường gọi cụ Cả Hồ, con gái thứ 2 cụ Hữu Tảo,
sinh năm 1919, mất ngày 01/8 năm 2015. Chồng là Đặng Ngọc Hồ, con trai cụ Bá Vấn,
người cùng làng, mất ngày 15/11/1957. Mộ hai cụ táng tại nghĩa trang làng Hoàng
xá, Vân Đình. Cụ có 6 người con gái là: Thị Kim, Thị Liên, Thị Nga, Thị Mỹ, Thị
Đức, Thị Nhật. Cư trú: Bạch Mai, Hà Nội. Cụ Cả Hồ thường mua hàng thực phẩm ở chợ
Vân Đình ra bán tại chợ Mơ Hà Nội.
15. Trần
Hữu Thọ tức Ba Thọ, con trai thứ 3 cụ Hữu Tảo., sinh năm Tân Dậu 1921, mất ngày
09/10 năm Giáp Thìn 1964. Vợ là Đặng Thị Phúc, người cùng làng, sinh năm Kỷ Mùi
1919, mất ngày 14/7 năm Mậu Dần 1998, thọ 80 tuổi. Mộ hai cụ song táng tại
nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình. Cụ bà là con gái cụ Đặng Tuấn Phong (mất
ngày 7/7) và cụ Đào Thị Hảo (mất ngày 07/01), là em gái cụ Đặng Tuấn Cảnh (mất
06/5). Cụ bà Đào Thị Hảo, người xã Vĩnh Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Hai cụ
sinh được 4 trai, 1 gái. 4 trai là: Đặng Trường, Hữu Đại, Hữu Thành, Hữu Công.
Con gái là Thị Thuý Hiền. Cư trú: Hoàn Kiếm, Hà Nội.
16. Cụ
Hữu Thọ sinh ra trong một gia đình khá giả, có nề nếp của làng Hoàng Xá, nhà có
9 anh chị em. Khi còn nhỏ, cụ cùng với các người anh em trai đều được bố mẹ
nuôi cho ăn học tại trường Phủ. Sau đó cụ học trại Trường Kỹ Nghệ Quang Trung
Hà Nội. Cuộc đời cụ đã trải qua nhiều công việc: Thủy thủ thợ máy tầu nhà binh
Pháp, lái xe khách đường Hà Đông vân Đình, đường Hà Nội Thái Nguyên; thợ cơ khí
xưởng cưa Sông Hồng Hà Nội. Năm 1952-1953 cụ được dân làng cử làm Xã ủy tề.
Trong thời gian này, cụ có liên hệ với Việt Minh và có ủng hộ tiền bạc thuốc
men. Cụ là người chịu khó làm việc, sống tình cảm và trách nhiệm với vợ con,
anh em, họ hàng, chan hòa với xóm làng. Cụ hữu Thọ đã tham gia trực tiếp, tích
cực việc xây dựng mới nhà thờ chi Ất năm 1953. Cụ bà là một trong
những người nghụ nữ học cao của làng Hoàng Xá. Tính tình hiền lành, chịu
thương, chịu khó, làm việc vất vả nhiều nghề để nuôi dậy các con học hành trưởng
thành nên người.
17. Trần
Thị Thục là con gái thứ 3 của cụ Hữu Tảo, sinh năm 1923, mất 12/2 năm Nhâm Dần
2022. Chồng là Đặng Văn tiêu tức Tư Tiêu sinh năm 1924, mất ngày 11/4 năm 2020, con
cụ Đặng Văn Nghị, người cùng làng, làm nghề lái xe khách nghỉ hưu. Hai
cụ có 5 con trai, 3 con gái: Đặng Thuyết, Đặng Dũng, Đặng
Hải Nam, Đặng Trần Long, Đặng Quốc Hùng, Thị Thoa, Thị Châu, Hoàng Oanh.
Cư trú: Thái Thịnh 2, TP Hà Nội. Cụ Thục làm nghề buôn bán tại chợ Đồng
Xuân, Hà Nội.
18. Trần
Hữu Khang tức Tư Khang, con trai thứ 4 của cụ Hữu Tảo, sinh năm 1925, mất ngày
24/9 năm Ất Tỵ 1965. Vợ là Đặng Thị Nhuận, sinh năm1923, mất ngày 12/2 năm
2017. Mộ hai cụ song táng tại nghĩa trang làng Hoàng xá, Vân Đình. Cụ Nhuận là
con gái cụ Đặng Văn Dự còn gọi là Nghị Dự, người cùng
làng. Hai cụ có 1 con trai là Trần Hữu Kiên và 7 con gái là: Trinh Mỹ, Minh Hà
(Hằng), Ngọc Thuỷ, Bích Ngọc, Bích Ngà, Mai Anh, Ngọc Lan. Cư trú: ngõ Phan Huy
Chú, Hà Nội.
19. Trần
Thị Tám, con gái thứ 4 của Cụ Hữu Tảo, sinh năm 1927, mất ngày 18/12/2022, an
táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá. Chồng là Đỗ Đặng Lã tức Hai Lã, người cùng
làng. Hai vợ chồng có tham gia kháng chiến chống Pháp, là viên chức nhà nước
nghỉ hưu. Hai cụ có 2 con trai, 3
con gái: Đỗ Cường, Đỗ Tấn,
Thị Yến, Thị Hà, Thị Phương. Cụ Đỗ Đặng Lã là em ruột cụ Đỗ Thị Bún là vợ cụ Trần
Hữu Tài. Cư trú: Thanh Đàm, TP Hà Nội.
20. Trần
Hữu Ninh, con trai thứ 5 cụ Hai Tảo, sinh năm 1929, mất ngày 07/5 năm Ất Dậu
1945, khi 16 tuổi. Mộ táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình.
21. Trần
Thị Đởm, con gái cụ Hữu Hà mất khi 10 tuổi.
22. Trần
Hữu Hán, con trai trưởng cụ Hữu Hà, sinh năm 1933, mất ngày 24/5/2020, làm nghề
thợ may. Mộ táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình. Vợ là Hoàng Thị Lê,
sinh năm 1938, người cùng làng, là y sỹ trạm y tế xã. Có 6 con trai là: Duy
Hưng, Thanh Hải, Hữu Hòa, Hữu Hiền, Hữu Hiển, Hữu Hoàng. Cư trú: làng Hoàng xá,
TT Vân Đình.
23. Trần
Ngọc Phú, con trai thứ 2 của cụ Hữu Hà, sinh năm 1936, làm nghề thợ may, mất
19/6/2023, an táng tại nghĩa trang thôn Ba Chữ, Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội. Vợ
là Chử Thị Cúc, là công nhân nghỉ hưu. Có con gái là Trần Tố Hoa, con trai là
Trần Ngọc Quý. Cư trú: Vân Trì, Vân Nội, Đông Anh, TP Hà Nội.
24. Trần
Thị Hồng, con gái cả cụ Hữu Hà, sinh năm 1935, cán bộ nghỉ hưu. Chồng là Đào Tư
Giá, người cùng làng, cán bộ nghỉ hưu, mất năm 2010. Có 2 con trai, 3 con gái:
Ánh Tuyết, Tư Dũng, Mạnh Tiến, Mạnh Son, Hải Yến. Cư trú: làng Hoàng xá, TT Vân
Đình.
25. Trần
Thị Huyền, con gái thứ 2 cụ Hữu Hà, sinh năm 1940, thợ may. Chồng là Trịnh Phúc
Hồng, sinh năm 1935, đi bộ đội là liệt sĩ. Có con trai Quốc Hùng, con gái Thu
Hương. Cư trú: làng Hoàng xá, TT Vân Đình.
26. Trần
Quốc Thịnh, con trái thứ 3 cụ Hữu Hà, sinh năm 1944, trung tá bộ đội nghỉ hưu,
vợ là Nguyễn Thị Thao, bộ đội nghỉ hưu. Có hai con trai là Việt Thành, Trung Hiếu.
Cư trú: Khương Đình, Hà Nội.
ĐỜI
THỨ 14
1. Trần
Hữu KD là con trai cụ Giáo Tần mất sớm.
2. Trần
Thị Hồng, con gái cụ Giáo Tần, còn gọi là bà Chánh Giám. Có chồng là Đỗ Trọng
Kha còn gọi là ông Chánh Giám ở thôn Trinh Tiết, Mỹ Đức tức làng Sêu. Có các
con là: Thị Thu, Thị Xuân, Cả Hùng (Giám đốc sở NN &PTNT tỉnh Sơn La nghỉ
hưu), Hai Cường, Thị Hạ, Thị Đông và con trai út là Ba. Hai vợ chồng đã mất.
3. Trần
Thị Long, tức Thị Lồng, còn gọi là cả Hy, con gái cả cụ Hữu Cần, sinh năm 1931,
cán bộ Sở Ngoại Thương Hà Nội nghỉ hưu. Chồng Nguyễn Bá Hy người làng Trinh Tiết,
Mỹ Đức, Hà Tây, cán bộ sở Ngoại thương Hà Nội nghỉ hưu. Có các con: Thị Băng,
Văn Dân (Đại tá Quân đội nghỉ hưu), Thị Ngà, Văn Việt, Thị Hương. Cư trú ở Thể
Giao, Hà Nội.
4. Trần
Hữu Kiểm tức Hoan, sinh năm 1932, con trưởng cụ Hữu Cần, thừa kế Trưởng ngành Đức
Nghiệp. Vợ cả là Đặng Thị Hạ, đã ly dị không có con chung. Vợ hai là Vũ Thị
Tâm, sinh năm 1932, mất 26/6 năm 1987. Có 03 con trai, 5 con gái. 3 trai là: Hữu
Hạnh, Hữu Thành, Hữu Khánh. 5 gái là: Thị Ngà, Lan Anh, Lan Phương, Thị Oanh,
Thị Chung. Cư trú: Hoàn Kiếm, Hà Nội.
5. Trần
Thị Lư, con gái thứ 2 cụ Hữu Cần, sinh năm 1934, giáo viên cấp I ở Ứng Hoà nghỉ
hưu. Chồng là Diệu Tổ Kiệt, mất 23/12 năm 2008, quốc tịch Trung Quốc, cán bộ
công ty Thực phẩm Huyện Ứng Hoà nghỉ hưu. Có các con: Diệu Tổ Tề, Diệu Tổ Bình,
Thị Hạnh, Thị Vân, Minh Hải, Mạnh Cường, Anh Tuấn. Cư trú TT Vân Đình.
6. Trần
Hữu Thảo, con trai thứ 2 của cụ Hữu Cần, sinh năm 1935, là công nhân Công ty Cơ
khí Đồng Tháp Hà Nội, mất 25/8 năm Ất Hợi 1995, mộ táng tại nghĩa trang làng
Hoàng Xá, Vân Đình. Vợ là Nguyễn Thị Dũng cùng là Công nhân Công ty Cơ Khí Đồng
Tháp Hà Nội. Có các con: Thị Dung, Thị Thu Hiền, Hữu Đạt. Cư trú tại Châu Long,
Hà Nội.
7. Trần
Hữu Nhượng, con trai thứ 3 của cụ Hữu Cần, sinh năm 1946, công nhân Công ty ô
tô Thống Nhất Hà Nội. Mất 12/8 năm Đinh Sửu 1997, mộ táng tại nghĩa trang làng
Hoàng Xá, Vân Đình. Vợ là Tạ Thị Pha, có hai con gái là Quỳnh Như, Thùy Trang.
Cư trú tại Châu Long, Hà Nội.
8. Trần
Hữu Tiến, con trai thứ 4 của cụ Hữu Cần, sinh năm 1947. Đi bộ đội năm 1972 rồi
bỏ ngũ, sau là công nhân lái tàu hỏa rồi là giáo viên trường dậy nghề Tổng cục
Đường sắt nghỉ hưu. Vợ là Nguyễn Thị Nga, có hai con gái: Thanh Nhàn, Khánh
Vân. Cư trú tại Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội.
9. Trần
Thị Yến, con gái út cụ Hữu Cần, sinh năm 1951, mất 01/3/2023, an táng tại nghĩa
trang làng Hoàng Xá. Công nhân kỹ thuật xưởng Dệt thảm len Hà Nội nghỉ hưu. Chồng
là Nguyễn Ngọc Lân người TT Vân Đình, hiện đang cư trú tại Gia Lâm Hà Nội. Có 2
con là Ngọc Hưng, Ngọc Cương.
10. Trần
Hữu Dụng, sinh năm 1935, con trưởng cụ Ba Mẫn, giáo viên nghỉ hưu. Vợ là Phùng
Thị Dung, sinh năm 1945, người Gia Lâm, Hà Nội. Có 2 con trai là Hữu Thắng, Hữu
Hưng. Cư trú: Gia Lâm, Hà Nội.
Khi
nhỏ ông Hữu Dụng học trường Sêu, trường Phủ, sau học trung học Nguyễn Huệ tại
Sêu, đến năm 1950 học trường Kỹ nghệ Quang Trung Hà Nội, ngành ô tô. Năm 1955,
học Đại học Nhân dân một năm, sau đi thực tế Thanh niên xung phong, rồi học trường
Sư phạm trung cấp Trung Ương 2 năm, dậy cấp 2 ở Nghĩa Lộ, Sơn la, sau làm Hiệu
trưởng. Sau chuyển làm Hiệu trưởng trường Sư phạm cấp 1 của tỉnh rồi chuyển về
làm Trưởng phòng Phổ thông của Sở Gáo dục Sơn La. Năm 1970 chuyển về Hà Nội làm
Hiệu phó trường Cấp II Phú Thụy, Gia Lâm rồi hiệu phó trường Ngọc Thụy, Gia Lâm
đến khi nghỉ hưu. Ông Hữu Dụng là người quan tâm, nhiệt tình và có đóng góp
tích cực với các công việc của họ của làng. Ông là thành viên Hội đồng Gia tộc
thời kỳ 2000-2019. Ông Hữu Dụng cùng với ông Hữu Thành
B đã biên soạn Đồ phả họ Trần Hoàng Xá treo tại nhà thờ họ và nhà thờ
chi Ất. Ông đã tham gia trực tiếp, tích cực việc xây dựng mới nhà thờ họ Trần
Hoàng Xá năm 2014-2015.
11. Trần
Thị Nội Châu, con gái cả cụ Hữu Mẫn, sinh năm 1939, mất năm 2012, an táng tại
khu mộ ngành Đức Nghiệp, nghĩa trang làng Hoàng Xá. Chồng là Ngô Ngọc Tấn, có 3
con là: Ngọc Tuấn, Thị Ngọc Điệp, Ngọc Tuấn. Vợ chồng đã ly dị, bà Châu không ở
với các con.
12. Trần
Hữu Đức, con trai thứ 2 cụ Ba Mẫn, sinh 1943, vợ là Tô Thị Nụ, có 3 con gái là:
Thu Hà, Hoàng Vân, Tố Hoa. Học Trung cấp Kiến trúc Đường sắt, Đội trưởng một đội
xây dựng đường sắt, là người phụ trách thi công khách sạn Khăn quàng đỏ. Về
hưu, chuyên thầu sửa chữa cải tạo nhà cửa, vững về kỹ thuật kết cấu. Cư trú tại
Quận 9, TP HCM.
13. Trần
Thị Hợi, con gái thứ 2 cụ Ba Mẫn, sinh năm 1947, chồng là Ngô Đình Chương,
sinh 1934, mất năm 2003. Có 4 con là: Hoàng Chinh, Thị Cẩm Na, Đình Chương
Dương, Thị Cẩm Lê. Học trường sư phạm 10+2 Thái Bình. Dậy học tại Trường Nam Tiến,
thị trấn Ba Hàng, Thái Nguyên, sau là kế toán Liên hiệp Lương thực Hà Nội, nghỉ
mất sức. Cư trú: Hai Bà Trưng, Hà Nội.
14. Trần
Hữu Tam, con trai thứ 3 cụ Ba Mẫn, sinh năm 1950, vợ là Vũ Thị Đào. Có 2 con
trai là Vũ Huy, Vũ Linh. Người to béo, ăn to nói lớn, tính nóng nảy, duy nhất
được vào đại học trong gia đình, đi bộ đội chống Mỹ, có
thương tật từ chiến trường trở về. Cư trú: Thanh Xuân, Hà Nội.
15. Trần
Thị Nhã, con gái thứ 3 cụ Ba Mẫn, sinh năm 1954, chồng là Nguyễn Công Lễ, có
con gái là Mai Phương, đã lấy chồng có một con. Bà Nhã khéo ăn nói nhất nhà,
nên ít mất lòng ai, là người duy nhất trong gia đình cụ Ba Mẫn vào Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cư trú: Hoàn Kiếm, Hà Nội.
16. Trần
Thị Bẩy, con gái thứ 4 cụ Ba Mẫn, sinh 13/01/1956, chồng là Nguyễn Đức Tiến, có
2 con gái: Mỹ Hạnh, Kim Ngân. Học Đại học TDTT Từ Sơn, song bỏ nửa chừng, sau
làm việc tại bệnh viện Bạch Mai Hà Nội. Chồng đi xuất khẩu lao động tại Đức, nhập
quốc tịch Đức, sau 15 năm lại trở về đoàn tụ. Cư trú: Hà Nội.
17. Trần
Thị Bính, con gái đầu cụ Cả Tài, sinh năm 1936, mất ngày 25/ 5 năm Nhâm Ngọ
1942, khi mới 7 tuổi.
18. Trần
Hữu Lợi, con trai trưởng cụ Cả Tài, sinh năm 1939, giảng viên, Chủ tịch Công
Đoàn trường Đại học SP Ngoại ngữ Hà Nội nghỉ hưu. Vợ là Ngô Thuý Hương, sinh
năm 1944, giáo viên nghỉ hưu, người ở Phùng Chí Kiên, Mỹ Hào, Hưng Yên. Có con
trai là Hữu Hiếu, con gái là Lê Hoa. Cư trú: chung cư 39 Trường Chinh, Hà Nội.
Ông Hữu Lợi là người tốt tính, hiền lành, nhiệt
tình với công việc của họ hàng, làng nước. Ông đã tham gia trực tiếp, tích cực
việc xây dựng mới nhà thờ họ Trần Hoàng Xá năm 2014-2015.
19. Trần
Hữu Hạnh, con trai thứ của cụ Cả Tài, sinh năm 1942, kỹ sư cán bộ Viện Bảo vệ
Thực vật Bộ NN&PTNT nghỉ hưu. Vợ là Nguyễn Thị Thoa, sinh năm 1943, mất
ngày 10/3 năm Nhâm Dần 2022, là Kỹ sư, Trưởng phòng KCS công ty Giống cây trồng
Trung ương nghỉ hưu. Có con trai là Hữu Thắng, con gái là Thị Hằng. Cư trú:
Phương Mai, Hà Nội.
20. Trần
Thị Bổng, con gái đầu cụ Hai Lộc, sinh năm 1947, cán bộ ngành dược nghỉ hưu. Chồng
là Hoàng Quý Căn, cán bộ nghỉ hưu, mất năm 2023. Có 3 con gái là: Diệu Thanh,
Tú Khanh, Cẩm Vân. Cư trú: Đào Tấn Hà Nội.
21. Trần
Hữu Hiệp, con trai trưởng cụ Hai Lộc, sinh năm 1951, Cử nhân toán, giáo viên
trường chuyên Hà Nội - Amstecdam nghỉ hưu. Vợ là Từ Hiền Anh Thư, Cử nhân toán,
giáo viên nghỉ hưu, người Thường Tín, Hà Nội. Có 2 con trai là: Minh Anh, Huy
Khôi, con gái Thị Hiền Anh mất sớm. Cư trú: Đào Tấn, Hà Nội.
22. Trần
Hữu Quỳnh, con trai thứ 2 cụ Hai Lộc, sinh 1954, mất ngày 28/12 năm 1975, an
táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình. Nhập ngũ 01/2/1972, binh nhất tiểu
đội trưởng huấn luyện tân binh, E5 F351, Quân khu Tả ngạn. Xuất ngũ 6/1973 vì yếu
sức khỏe (bệnh tâm thần phân lập). Mất tại bệnh viện Việt Nam Cu Ba, Trần Hưng
Đạo, Hà Nội.
23. Trần
Hữu Giao, con trai thứ 3 cụ Hai Lộc, sinh năm 1955, Kỹ sư chế tạo máy nghỉ hưu.
Vợ là Thạch Thị Hoà cán bộ thuế Hà Nội nghỉ hưu, mất 2018, người Hà Nội. Có 2
con trai là Quang Minh, Minh Đức. Cư trú: Hàng Phèn, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
24. Trần
Hữu Thuận, con trai thứ 4 cụ Hai Lộc, sinh năm 1958, Kỹ sư hàng hải nghỉ hưu. Vợ
là Đặng Thị Ngọc Toản, người Nghệ An, có 2 con trai là Nam
Hưng, Quang Cơ. Cư trú tại Nguyễn Khoái, Quận 4, TP Hồ Chí Minh.
25. Trần
Minh Nguyệt, con gái thứ 2 cụ Hai Lộc, sinh năm 1960, cán bộ Ngân hàng
Indochina nghỉ hưu. Chồng là Vũ Việt Dũng, quê Vĩnh Bảo, Hải Phòng đã ly dị, có
1 con trai là Hoàng Linh. Cư trú: Hà Nội.
26. Trần
Đặng Trường, sinh năm 1947, con trai trưởng cụ Ba Thọ, Cử nhân,
giáo viên, trưởng bộ môn toán trường Trung học cơ sở nghỉ hưu. Vợ là Dương Thị
Nghĩa, sinh 1950, quê gốc Mai Lĩnh, Chương Mỹ, Hà Nội, giáo viên Tiểu học nghỉ
hưu. Có 2 con gái là Thanh Diệp, Thanh Hương. Cư trú: chung cư Eco Green, Nguyễn
Xiển, Hà Nội.
27. Trần
Hữu Đại, con trai thứ 2 cụ Ba Thọ, sinh 1949, Kỹ sư hóa Thực phẩm, Phó Giám đốc
XN Chế phẩm vi sinh Hà Nội, cán bộ nghỉ hưu. Vợ là Đào Thanh Vân sinh 24/10/1961,
người Hà Nội, Kỹ sư hóa Thực phẩm, cán bộ nghỉ hưu. Có con trai là Tuấn Anh,
con gái là Vân Trang. Cư trú: Nguyễn An Ninh, Hà Nội.
28. Trần
Thuý Hiền, con gái cụ Ba Thọ, sinh 1951, Kỹ sư xí nghiệp Gỗ Hà Nội nghỉ hưu. Chồng
là Lê Đức Hảo sinh năm 1946, mất 04/12 năm 2021, người Phố Vọng, Hai Bà Trưng,
Hà Nội. Có con trai là Lê Huy. Cư trú: Linh Đàm, Hà Nội.
29. Trần
Hữu Thành, con trai thứ 3 cụ Ba Thọ, sinh 1956, Thạc sĩ Kỹ thuật, làm việc tại
Tổng công ty Rau quả, Nông sản, Phó Tổng giám đốc công ty LD Crown Hà Nội, nghỉ
hưu. Vợ là Đinh Thị Thuý Hằng sinh năm 1957, người Đại Thành, Quốc Oai, Hà Nội.
Có con gái là Thanh Hà, con trai là Hữu Đạt. Cư trú tại Nguyễn An Ninh, Hà Nội.
Ông Hữu Thành là người quan tâm, nhiệt tình và có đóng góp tích cực với các
công việc của dòng họ. Năm 2011, ông Hữu Thành cùng với ông Hữu Dụng đã biên soạn
Đồ phả họ Trần Hoàng Xá treo tại nhà thờ họ và nhà thờ chi Ất. Ông đã làm trang
Web Họ Trần Hoàng Xá, quản lý và duy trì trang Web từ năm 2018 tới nay, chủ trì
biên soạn Gia phả Họ Trần Hoàng xá, tham gia trực tiếp, tích cực việc xây dựng
mới nhà thờ Họ và nhà thờ Chi Ất. Ông Hữu Thành là thành viên Hội đồng Gia tộc
từ 9/2019.
30. Trần
Hữu Công, con trai thứ 4 của cụ Ba Thọ sinh năm 1960, mất khi còn nhỏ.
31. Trần
Trinh Mỹ, con gái đầu cụ Tư Khang, sinh 1947. Chồng là Nguyễn Văn Thu quê gốc
Hưng Yên, mất 11/7 năm Quý Tỵ 2013. Có con gái là Mỹ Hạnh, con trai là Đức
Minh. Hiện ba mẹ con đang cư trú tại LB Đức.
32. Trần
Hữu Kiên, con trai trưởng của cụ Tư Khang, sinh 1950, vợ là Nguyễn Thị Trung đã
ly dị, có con trai là Đức Anh, con gái là Hồng Lê. Ông Kiên là giáo viên Trung
học cơ sở tại Hà Nội sau sang sinh sống và làm việc tại LB Đức.
33. Trần
Minh Hà (Hằng), con gái thứ 2 cụ Tư Khang, sinh 1952, giáo viên Trung học cơ sở
nghỉ hưu. Chồng là Phạm Văn Cường, Việt kiều Thái Lan về nước, mất năm 2010. Có
con trai là Minh Anh, con gái là Hà Phương. Cư trú: Hoàn Kiếm, Hà Nội.
34. Trần
Ngọc Thuỷ, con gái thứ 3 cụ Tư Khang, sinh 1954, Cử nhân, giáo viên nghỉ hưu.
Chồng là Nguyễn Đình Long, người gốc Ninh Bình, có con gái là Trần Phương. Cư
trú tại Hà Nội.
35. Trần
Bích Ngọc, con gái thứ 4 cụ Tư Khang, sinh 1956, Kỹ sư xây dựng nghỉ hưu, chồng
là Bùi Công Mùi người Hà Nội, Kỹ sư nghỉ hưu. Có 3 con
gái: Thanh Hương, Trà Giang, Trà My. Cư trú tại Hà Nội.
36. Trần
Bích Ngà, con gái thứ 5 cụ Tư Khang, sinh 1957, chồng là Nguyễn Trinh. Người
hà Nội. Có con gái là Lan Phương, con trai là Việt Đức. Cư trú tại Hà Nội.
37. Trần
Mai Anh, con gái thứ 6 cụ Tư Khang, sinh 1960, hiện đang sinh sống tại LB Đức.
Chồng người Đức, đã ly dị, có con gái là Jenifer Haverman.
38. Trần
Ngọc Lan, con gái thứ 7 cụ Tư Khang, sinh 1963, chồng là Lý Quốc Vinh, có con
gái là Hoàng My, con trai Quốc Anh. Cư trú tại Hà Nội.
39. Trần
Hữu Hưng, sinh năm 1960, con trai trưởng cụ Hữu Hán, Tiến sĩ, Hiệu phó Trường
Cao Đẳng SP Hà Tây nghỉ hưu. Vợ là Nguyễn Kim Anh, dược sĩ, có 02 con gái là
Thuỳ Dung, Tuệ Minh. Cư trú: Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội.
40. Trần
Thanh Hải, sinh năm 1962, con trai thứ 2 cụ Hữu Hán, giáo viên, vợ là Trịnh Hải
Yến, giáo viên, có 2 con gái là Vân Anh, Thuỳ An. Cư trú: Hoàng Xá Vân Đình.
41. Trần
Hữu Hòa, sinh năm 1964, con trai thứ 3 cụ Hữu Hán, làm kế toán, vợ là Lê Thị
Hoàn, làm ruộng, có con trai là Hữu Đạt, con gái là Thuỳ Dương. Cư trú: Hoàng
Xá Vân Đình.
42. Trần
Hữu Hiền, sinh năm 1971, con trai thứ 4 cụ Hữu Hán, chủ doanh nghiệp tư nhân, vợ
là Nguyễn Thị Yến, sinh 1978, có con trai là Đức Anh, 2 con gái là Phương Linh,
Ngọc Anh. Cư trú: Hoàng Xá Vân Đình.
43. Trần
Hữu Hiển, sinh năm 1973, con trai thứ 5 cụ Hữu Hán, làm ruộng, vợ là Nguyễn Thị
Thoan, làm ruộng. Có 2 con trai là Hữu Vinh, Tuấn Anh. Cư trú: Hoàng Xá Vân
Đình.
44. Trần
Hữu Hoàng, sinh năm 1974, con trai thứ 6 cụ Hữu Hán, giảng viên Đại học, Tiến
sĩ. Cư trú: Hà Nội.
45. Trần
Tố Hoa, con gái đầu cụ Hữu Phú, sinh năm 1971, là giáo viên, chồng là Nguyễn Mạnh
Hùng, giáo viên, có 1 con trai, 1 con gái.
46. Trần
Ngọc Quý, sinh năm 1974, con trai trưởng cụ Hữu Phú, Kỹ sư cơ khí, vợ là Phạm
Phương Thảo, học Cao đẳng Công nghệ thông tin, có 2 con trai là Nam Huy, Huy Đức.
Cư trú: Đông Anh Hà Nội.
47. Trần
Việt Thành, sinh 1980, con trai trưởng cụ Hữu Thịnh, lấy vợ cả sinh 1 con trai
là Hoàng Nam, đã ly dị. Vợ hai là Phạm Thị Nguyệt, sinh năm 1985, có con gái là
Nguyệt Anh. Cư trú: Thanh Xuân, Hà Nội.
48. Trần
Trung Hiếu, sinh 1983, con trai thứ 2 cụ Hữu Thịnh, giảng viên Đại học, Tiến
sĩ, vợ là Nguyễn Thị Minh Phương, giảng viên Đại học, có con trai là Hoàng
Phong. Cư trú: Thanh Xuân, Hà Nội.
ĐỜI
THỨ 15
1. Trần
Hữu Hạnh, còn gọi là Ngọc, con trai trưởng ông Hữu Kiểm, cháu đính tôn đời thứ
15 ngành Đức Nghiệp, sinh 1956, mất 03/2 năm 2005. Vợ là Trần Hạnh Liên, có 3
con: Hữu Nghĩa, Thị Lan và Hữu Tuấn. Cư trú: Hà Nội.
2. Trần
Thị Ngà, con gái đầu Hữu Kiểm, sinh 1957 có chồng là Nguyễn Bá Quân sinh 1956.
Cư trú: Hà Nội.
3. Trần
Lan Anh, con gái thứ 2 Hữu Kiểm, sinh 1958 có chồng là Hoàng Đức Khánh sinh
1957. Cư trú: Hà Nội.
4. Trần
Lan Phương, con gái thứ 3 Hữu Kiểm, sinh 1960 có chồng là Đỗ Ngọc Triệu sinh
1957.
5. Trần
Hữu Thành sinh 1961 con trai thứ 2 của Hữu Kiểm, mất 18/12 năm 2006. Vợ Lê
Phương Hòa, có 1 con gái. Sau khi chồng chết, tái giá đem theo cả con gái còn
ít tuổi.
6. Trần
Thị Oanh, con gái thứ 4 Hữu Kiểm, sinh 1962 có chồng là Hoàng Đình Nguyên, sinh
1960 mất 1996.
7. Trần
Thị Kim Chung, con gái thứ 5 Hữu Kiểm sinh 1963, có chồng là Dương Văn Ninh,
sinh 1958. Cư trú: Hà Nội.
8. Trần
Hữu Khánh, con trai út Hữu Kiểm, sinh 1971, mất 23/1/1998, chưa có vợ.
9. Trần
Thị Dung, con gái đầu Hữu Thảo, sinh 1970 mất 1970.
10. Trần
Thị Thúy Hiền, con gái thứ 2 của Hữu Thảo, sinh 1972 có chồng là Nguyễn Đức Thịnh
sinh 1958. Cư trú: Hà Nội.
11. Trần
Hữu Đạt, con trai của Hữu Thảo, sinh năm 1977, vợ là Đặng Thị Nga, sinh năm
1977, có 2 con trai: Hữu Huy Hoàng, Hữu
Hoàng Anh. Cư trú: Hoàn Kiếm, Hà Nội.
12. Trần
Quỳnh Như, con gái đầu ông Hữu Nhượng, sinh 1988.
13. Trần
Thùy Trang, con gái thứ 2 ông Hữu Nhượng, sinh 1991.
14. Trần
Thị Thanh Nhàn, con gái đầu ông Hữu Tiến, sinh 1975, có chồng là Nguyễn Thành
Quân, sinh 1975. Cư trú: Hà Nội.
15. Trần
Khánh Vân, con gái thứ 2 ông Hữu Tiến, sinh 1977, có chồng là Vũ Văn Huy, sinh
1974. Cư trú: Hà Nội.
16. Trần
Hữu Thắng, con trai đầu ông Hữu Dụng, sinh năm 1976, Kỹ sư máy nông nghiệp, làm
việc tại Công ty Môi trường Hà Nội. Vợ là Nguyễn Mỹ Hà, sinh năm 1978. Có con
gái là Minh Hằng, con trai là Hữu Đức Minh. Cư trú: Gia Lâm, Hà Nội.
17. Trần
Hữu Hưng, con trai thứ 2 ông Hữu Dụng, sinh năm 1978, Cử nhân kinh tế, Phó Tổng
GĐ Vinamotor sau chuyển sang Ủy ban quản lý vốn Nhà nước. Vợ là Nguyễn Thúy Hà.
Có con trai là Hữu Nam Anh, con gái là Nguyễn Vân Anh. Cư trú: Gia Lâm, Hà Nội.
18. Trần
Thu Hà, còn gọi là Đông Anh, con gái đầu ông Hữu Đức, sinh 1970, có chồng là
Nguyễn Văn Thắng, sinh 1968. Cư trú: TP Hồ Chí Minh.
19. Trần
Thị Hoàng Vân, con gái thứ 2 ông Hữu Đức, sinh 1972, có chồng là Nguyễn Thanh
Tùng, sinh 1971. Cư trú: TP Hồ Chí Minh.
20. Trần
Tố Hoa, con gái thứ 3 ông Hữu Đức, sinh năm 1980, có chồng là Nguyễn Duy Hải,
sinh năm 1970.
21. Trần
Vũ Huy, con đầu ông Hữu Tam, sinh năm 1985, Cử nhân kinh tế. Cư trú: Hà Nội.
22. Trần
Vũ Linh, con trai thứ hai ông Hữu Tam, sinh năm 1992,. Vợ là Đặng Mai Ly, sinh
năm 1991, quê Bắc Ninh. Cư trú: Hà Nội.
23. Trần
Hữu Hiếu, con trai trưởng ông Hữu Lợi, sinh năm 1970, Cử nhân kinh tế, vợ là Trần
Thu Hương sinh 1976, có con trai là Phan Anh, con gái là Hà Linh. Cư trú: Thanh
Xuân, Hà Nội.
24. Trần
Lệ Hoa, con gái ông Hữu Lợi, sinh năm 1976, Cử nhân kinh tế. Chồng là Trần Mạnh
Hà, người Văn Quán Hà Đông, có con gái là Trang Khanh, con trai là Gia Nam. Cư
trú: Lê Trọng Tấn, Hà Nội.
25. Trần
Hữu Thắng, con trai ông Hữu Hạnh, sinh năm 1971, Kỹ sư tin học, Trưởng phòng
KT1, Vụ Công nghệ Tin học, Ngân hàng Nhà nước. Vợ là Nguyễn Huyền Châu, Cử nhân
kinh tế, kế toán. Có 03 gái là: Châu Anh, Hạnh Dung, Huyền Dung. Cư trú: Hà Nội.
26. Trần
Thúy Hằng, con gái ông Hữu Hạnh, sinh 1975, Cử nhân kinh tế, Giám đốc Chi nhánh
Ngân hàng ACB. Chồng là Dương Quang Chiến, Đại tá Công an. Có 1 con gái.
27. Trần
Minh Anh, con trai đầu ông Hữu Hiệp, sinh năm 1979, khi là sinh viên đạt giải
toán quốc tế. Vợ là Đào Thị Thu Hà, sinh 1979, người Hải Phòng. Hai vợ chồng
cùng học tại trường Polytechnique, cộng hòa Pháp, cùng làm Tiến sĩ toán. Minh
Anh làm việc tại trường Paris 6. Thu Hà làm việc tại Viện nghiên cứu quốc gia Cộng
hòa Pháp. Năm 2013, hai vợ chồng về Việt Nam làm việc. Cư trú: Thanh Xuân, Hà Nội.
28. Trần
Thị Hiền Anh, con gái ông Hữu Hiệp, sinh
năm 1982, mất năm 1986 khi 5 tuổi.
29. Trần
Huy Khôi, con trai thứ 2 ông Hữu Hiệp, sinh năm1988, học ngành tài chính trường
La Crosse USA, về Việt Nam làm việc. Vợ là Đỗ Thúy Hà người Yên Hòa, Hà Nội, gốc
Quảng Ninh, có con gái là Hà Diệu Anh. Cư trú: Hà Nội.
30. Trần
Quang Minh, là con trai cả ông Hữu Giao, sinh năm 1982. Vợ là Đặng Thị Hương, sinh
năm 1993, người Thường Tín. Có con gái là Bảo Anh. Cư trú: Hà Nội.
31. Trần
Minh Đức, con trai thứ 2 ông Hữu Giao, sinh năm 1990, du học tại Úc, đã về Việt
Nam làm việc. Vợ là Đỗ Cẩm Nhung, sinh năm 1990, có con trai là Hữu Phúc. Cư
trú: Hà Nội.
32. Trần
Nam Hưng, con trai cả ông Hữu Thuận, sinh năm1993, Cử nhân Kinh tế, làm kế
toán. Vợ là Dương Hà Ngoan, người Thạch Phú, Bến Tre. Có con gái là An Nhiên.
Cư trú: Nguyễn Khoái, TP Hồ Chí Minh.
33. Trần
Đăng Cơ, con trai thứ 2 ông Hữu Thuận, sinh năm 2003.
34. Trần
Thanh Diệp, con gái đầu ông Trần ĐặngTrường, sinh năm 1975, Cử nhân kinh tế,
cán bộ Ngân hàng Nhà Nước, chồng là Hà Thanh Toàn đã ly dị, sinh 2 con trai: Hà
Trần Đức Dũng, và Hà Trần Đức Tùng. Cư trú: Thanh Xuân, Hà Nội.
35. Trần
Thanh Hương, con gái thứ 2 ông Trần Đặng Trường, sinh năm 1977, Giáo viên Trung
học cơ sở, chồng là Nguyễn Phương Đông, Bác sĩ chuyên khoa II, có 2 con gái:
Nguyễn Trần Phương Uyên, Nguyễn Trần Phương Ngọc. Cư trú: Đống Đa, Hà Nội.
36. Trần
Tuấn Anh, con trai ông Hữu Đại, sinh năm 1988, Cử nhân kinh tế. Vợ Nguyễn Hồng
Nhung, sinh năm 1997, Cử nhân kinh tế. Có 1 con trai Trần Minh Đăng. Cư trú:
Nguyễn An Ninh, Hà Nội.
37. Trần
Vân Trang, con gái ông Hữu Đại, sinh năm 1991, Cử nhân kinh tế.
38. Trần
Thanh Hà, con gái ông Hữu Thành, sinh năm 1979, Cử nhân kinh tế. Chồng là Nguyễn
Văn Cường, sinh 1976, cử nhân tài chính, người Hà Nam, có 2 con gái là Hà
Trang, Hà Linh. Cư trú: Hoàng Mai, Hà Nội.
39. Trần
Hữu Đạt, con trai ông Hữu Thành, sinh năm 1982, Thạc sĩ kinh tế, Tổng giám đốc
công ty nước ngoài. Vợ là Vũ Ngọc Huệ, sinh 1982, Cử nhân kinh tế, người Bắc
Ninh, nhân sự cao cấp ngành Marketing Bất động sản. Có con gái là Ngọc Minh,
con trai là Hữu Trí. Cư trú: TP HCM.
40. Trần
Đức Anh (còn gọi là Bốp), con trai ông Hữu Kiên, sinh năm 1985, có vợ là Hoàng
Liên Hương, sinh năm 1984, có con gái là Thanh Hà, con trai là Trí Hải. Cư trú:
Đống Đa, Hà Nội.
41. Trần
Thùy Dung, con gái ông Hữu Hưng, sinh năm 2007.
42. Trần
Tuệ Minh, con gái thứ 2 ông Hữu Hưng, sinh năm 2010.
43. Trần
Vân Anh, con gái ông Hữu Hải, sn 1999.
44. Trần
Thùy Anh, con gái ông Hữu Hải, sn 2009
45. Trần
Hữu Đạt, con trai ông Hữu Hòa, sn 2004.
46. Trần
Thùy Dương, con gái ông Hữu Hòa, sn 2012.
47. Trần
Đức Anh, con trai ông Hữu Hiền, sn 2000
48. Trần
Phương Linh, con gái ông Hữu Hiền, sn 2007.
49. Trần
Ngọc Anh, con gái ông Hữu Hiền, sn 2011.
50. Trần
Hữu Vinh, con trai ông Hữu Hiển, sn 2007.
51. Trần
Tuấn Anh, con trai thứ 2 ông Hữu Hiển, sn 2009.
52. Trần
Nam Huy, con trai ông Ngọc Quý, sn 2001.
53. Trần
Huy Đức, con trai thứ 2 ông Ngọc Quý, sn 2007.
54. Trần
Hoàng Nam, con trai ông Việt Thành, sn 2009
55. Trần
Nguyệt Anh, con gái ông Việt Thành, sn 2015.
56. Trần
Hoàng Phong, con trai ông Trung Hiếu sn 2014.
ĐỜI
THỨ 16
1. Trần
Hữu Nghĩa, con trai Hữu Hạnh, sinh năm 1978, là cháu đính tôn đời thứ 16 ngành
Đức Nghiệp. Vợ là Đỗ Thanh Thủy sinh 1977. Có 2 con trai: Hoài Nam, Hoài Anh.
Cư trú: Hà Nội.
2. Trần
Thị Lan, con gái Hữu Hạnh, sinh năm 1980, có chồng là Nguyễn Chí Tú, sinh 1982.
3. Trần
Minh Tuấn, con trai thứ 2 Hữu Hạnh, sinh năm 1982, có vợ là Trần Mỹ Linh, sinh
năm 1983. Có con gái là Kim Ngân.
4. Trần
Bích Diệp, con gái Hữu Thành, sn 1988.
5. Trần
Hữu Huy Hoàng, con trai Hữu Đạt, sn 2002.
6. Trần
Hữu Hoàng Anh, con trai thứ 2 Hữu Đạt, sn 2003.
7. Trần
Nguyễn Minh Hằng, con gái Hữu Thắng, sn 2004
8. Trần
Hữu Đức Minh, con trai Hữu Thắng, sn 2009.
9. Trần
Hữu Nam Anh, con trai Hữu Hưng, sn 2005.
10. Trần
Nguyễn Vân Anh, con gái Hữu Hưng, sn 2005
11. Trần
Hà Linh, con gái Hữu Hiếu, sn 1995. Chồng là Đặng Hoàng Long người Hà Nội.
12. Trần
Phan Anh, con trai Hữu Hiếu, sn 1999
13. Trần
Châu Anh, con gái Hữu Thắng, sn 2000
14. Trần
Huyền Dung, con gái thứ 2 Hữu Thắng, sn 2005
15. Trần
Hạnh Dung, con gái thứ 3 Hữu Thắng, sn 2005.
16. Trần
Hà Diệu Anh, con gái Huy Khôi, sn 2017
17. Trần
Hữu Phúc, con trai Minh Đức, sn 2017
18. Trần
Ngọc Minh, con gái Hữu Đạt, sn 2008
19. Trần
Hữu Trí, con trai Hữu Đạt, sn 2011
20. Trần
Thanh Hà, con gái Đức Anh, sn 2011
21. Trần
Trí Hải, con trai Đức Anh, sn 2020
ĐỜI THỨ 17
1.
Trần Hoài Nam, con trai Hữu Nghĩa cháu đích tôn
ngành Đức Nghiệp đời 17, sn 1999.
2.
Trần Hoài Anh, con trai thứ 2 Hữu Nghĩa, sn
2006.
3.
Trần Kim Ngân, con gái Minh Tuấn, sn 2008.