Thứ Ba, 1 tháng 5, 2018

Gia phả chi Ất Trần tộc Hoàng Xá

Do cụ Tổ  Trần Hữu Vinh đời thứ 9 viết, cụ Trần Hữu Oánh đời thứ 12 viết bổ sung.

1.      ĐỜI THỨ NHẤT, THỨ HAI:
Khởi tổ: Phúc Nhân, sinh con trưởng là: Phúc Lương
-         Phúc Lương sinh con trai trưởng là Phúc Thịnh, trai thứ Phúc Độ
-         Phúc Thịnh thừa tự. Từ đường hiện nay do Quang Xưởng thờ phụng.
2.      ĐỜI THỨ BA:
 Phân tổ: Phúc Độ sinh con trai trưởng Phúc Chân, trai thứ Phúc Hoàn.
             Phúc Hoàn chẳng may không người thừa tự.
3.      ĐỜI THỨ BỐN:
Cao tổ: Phúc Chân sinh con trai trưởng là Thuần Chất, trai thứ là Phúc Ân.
            Thuần Chất thừa tự. Từ đường hiện nay do Trần Hữu Tài thờ phụng.
4.      ĐỜI THỨ NĂM:
Phân tổ: Phúc Ân sinh con trai trưởng là Phúc Chính, trai thứ Đức Nghiệp.
Phân chi của tổ Đức Nghiệp.  Từ đường hiện nay do Hữu Khương thờ phụng.
5.      ĐỜI THỨ SÁU:
Cao tổ: Phúc Chính sinh con trai trưởng là Ôn Chất, trai thứ là Ôn Từ. Ôn Chất thừa tự. Từ đường hiện nay do Hữu Thi thờ phụng.
6.      ĐỜI THỨ BẢY :
Phân tổ: Ôn Từ sinh hạ 6 trai là: Trai Trưởng: Trọng Diễn, Thứ: Trọng Tiễn, Trọng Tộ, Trọng Trường, Trọng Niên,  Trọng Thọ
Trưởng Diễn không có con trai nối dõi. Trọng Tiễn thừa tự, chăm nom hương hoả.
7.      ĐỜI THỨ TÁM :
Cao tổ: Trọng Tiễn sinh hạ được 6 trai:
Trưởng Huấn, Trọng Vị, Trọng Chế, Trọng Hoành (Hồng?), Trọng Quân và con út Trọng Thẩn.
Trọng Huấn và Trọng Vị không có con thừa kế. Trọng Chế thừa tự trông nom hương hoả.
8.      ĐỜI THỨ CHÍN :
Tằng tổ: Trần Trọng Chế sinh bốn con trai là Trưởng Thất, Trọng Vũ, Trọng Thần và út Trọng Cung. Ai nấy đều có chức nghiệp, sinh con để cháu rất phồn thịnh.

9.      ĐỜI THỨ MƯỜI :
Bà vợ cả của Tằng tổ là người họ Dương, sinh Trưởng Thất và Trọng Vũ. Trọng Vũ không may không có người kế nghiệp.
10. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT :
Ông nội Trưởng Thất sinh ra con trưởng là Hữu Huệ. Ông Hữu Huệ sinh được 4 con trai. Từ đường hiện nay do Trần Hữu Oánh trông nom hương hoả.
Ông Chú là Cung sinh được 5 con trai, con trưởng là Hữu Phú. Hữu Phú sinh được 4 con trai, con trai trưởng là Trần Hữu Tích trông nom hương hoả.
Bà vợ thứ của Tằng tổ là bà họ Cát, sinh con lớn là Thần, con thứ là Cung. Con trưởng sinh ra ông trưởng Uyển. Trưởng Uyển sinh trưởng Thái. Trưởng Thái sinh được 5 con trai, hiện nay phân ra các chi nhánh. Bà họ Cát vợ thứ của Tằng tổ còn có nhà thờ do cháu trưởng là Trần Hữu Ẩm thờ phụng.
********************************************
Biểu đồ (có biểu đồ kèm theo) không thể diễn đạt hết được ý nghĩa, phải ghi lại để nói cho rõ. Họ Đông A (tức họ Trần) ta, từ xưa vốn là một dòng họ lớn, sách vở ghi chép tên tuổi còn để lại tiếng thơm. Truyện ở Phương Đình có họ Trần gặp được vận lành, trong thời thịnh trị, thuần phong đôn hậu, cảnh tượng thái hoà, tổ phụ bá thúc, huynh đệ tử tôn đều là dân của vua, sống trên đất của nhà vua, được đức vua che chở, thật đúng là do trời phú cho, phong tục cổ kính hồn nhiên. Gia đình hiếu thảo hữu ái, nền nếp nhân nghĩa kính ái, ngày càng dày thêm, từ một gốc sinh ra muôn cành ngàn lá. Thời buổi ấy, thế cuộc ấy, nay nhìn thấy, nay nghe thấy, năm tháng xa đi, vật đổi sao rời, vận hội thăng trầm, khí số thịnh suy, như viên ngọc quý có chỗ vết nho nhỏ, như cây gỗ tốt có chỗ mục nhỏ. Nghe lời kể lại, việc xẩy vào đời vua Vĩnh Hựu, chẳng phải là tình nghĩa, họ hàng thân thích ruột thịt lại nhìn nhau như kẻ hằn thù, ai nấy chia riêng ra chi phái, ai nấy lập nghiệp riêng ra từ đường. (Các cụ ta ngày trước kể rằng, từ đời cụ tổ Phúc Độ, tiên tổ phụ huynh vốn thờ chung trong một từ đường ở nhà Trần Quang Mạch, sau đó anh em bất hoà với nhau, bèn lập ra từ đường  riêng ai nấy thờ cúng). Rút cục tiếng tăm để lại, một bầu tâm sự từ nay trở về sau còn trời còn đất là vậy. Vì thế đến khoảng thời Thiệu Trị (1740-1747), từ đường đôi chi lại hợp làm một. (Cả họ tụ tập tại từ đường nhà ông Quyền). Trộm nghĩ, công ơn tổ tiên ngày xưa mưa tính có lẽ do oan trái gì ngày trước. Hai ngôi từ đường cùng thờ phụng tổ tiên, nay hợp lại để cúng tế, thế nhưng chẳng được bao lâu thì lại thôi không hợp nữa. Than ôi! lòng người như thế như thế, ai oán lẽ trời chẳng hay chẳng hay. Thóc đem vào cối xay, vải đem đi may áo, cần phải suy nghĩ sâu xa đến ngọn nguồn. Nước có nguồn, cây có gốc, cần phải suy nghĩ lẽ đó. Ngày tháng lại dần trôi qua, cho đến khoảng năm thứ tư thứ năm đời vua Tự Đức (1848-1883), hai từ đường lại một lần nữa hoà hợp với nhau ở từ đường nhà Trần Quyền. Có được ngày nay, lại nhớ đến ngày xưa, lòng hối hận thúc đẩy phải làm việc thiện, truy tìm lại nguồn ngọn cành lá, hàng năm hai mùa xuân thu, đặt ra thành điều lệ tế lễ. (Mỗi kỳ đến ngày tế lễ, phải sắm sửa một cái lễ trị giá độ một quan tiền, hễ khi có việc vui mừng chúc tụng thì phải sắm một cái lễ trị giá độ ba quan tiền). Các loại đồ lễ, sắm sửa đủ đem đến lễ ở từ đường (từ đường do Trần Quang Mạch trông nom thờ cúng). Phải nhớ đến công đức của tổ tiên từ xưa để lo đền đáp, con người ta có nguồn gốc từ tổ tiên, được lễ nghĩa sắp xếp theo dòng phái, giống như nước có nguồn, cây có gốc. Con cháu các ngươi đời sau hãy nhớ đến công đức của tổ tiên ta, tinh thần anh linh của các vị còn mãi như ngày xưa, muôn đời không thay đổi, vạn đại vẫn như thấy còn đó. Cần phải tỏ lòng chí thành, đời sau kế nối đời trước làm rạng rỡ cho tổ tông. Người xưa có thơ ca răn dạy, nói việc anh em trong nhà chém giết lẫn nhau, bánh xe trước đổ là điều răn dạy kẻ sau vậy. Cần phải khắc cốt ghi xương nhớ lấy những lời lẽ vĩnh hằng của trời đất, những điều nghị luận chung của xưa nay, trăm mối ngàn đầu đều được thấy bắt đầu từ đây, không có gì lớn hơn thế cả, do vậy làm ra phả ký, khuyên bảo con cháu nhớ đến công đức của tổ tiên, biết được rằng, trước sau vẫn như một dù là qua hàng vạn năm.