Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018

Ảnh động thổ xây dựng nhà thờ mới










Ảnh ngày rước cụ Thủy Tổ về nhà thờ mới










Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

Họ Trần có nguồn gốc và gia phả mộ tổ ở đâu

       Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Trước kia, tổ tiên vua (Trần Thái tông) là người đất Mân”. Đất Mân là vùng cư trú của tộc Mân Việt thuộc dòng Bách Việt. Người Bách Việt vốn sống từ sông Trường Giang về phía Nam. Theo nghiên cứu của học giả Đào Duy Anh có tới 500 tộc Bách Việt sống rải rác ở Hoa Nam Trung Quốc, Miến Điện, bắc Việt Nam, bắc Lào, hình thành một số bộ tộc lớn: người Âu Việt ở vùng Chiết Giang-Trung Quốc ngày nay, người Mân Việt ở vùng đất Mân (tỉnh Phúc Kiến)-Trung Quốc ngày nay, người Dương Việt ở vùng đông Hồ Nam, một phần Hồ Bắc, Giang Tây, Quảng Đông, người Lạc Việt ở vùng tây Hồ Nam, Quảng Tây, phần bắc và trung Việt Nam ngày nay, người Điền Việt ở vùng Vân Nam-Trung Quốc ngày nay.

    Thời Kinh Dương vương dựng nước đặt tên nước là Xích Quỷ (tên hai ngôi sao ứng với vùng đất này), đông giáp biển Đông, tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên-Trung Quốc ngày nay), bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam – Trung Quốc ngày nay), nam giáp Hồ Tôn (tỉnh Khánh Hòa–Việt Nam ngày nay). Tiếp sau Kinh Dương vương, vua Lạc Long quân và bà Âu Cơ đã có công thu phục thống nhất dòng Bách Việt về một mối nên Lạc Long quân được suy tôn là “Thủy tổ Bách Việt” (Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim), bà Âu Cơ được suy tôn là “Mẫu Âu Cơ” và truyền thuyết “bà Âu Cơ đẻ bọc một trăm trứng nở một trăm người con” có từ đấy (Bách Việt). 

    Sau khi thống nhất Trung Quốc, năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng mở cuộc chiến tranh xâm lược ra các nước xung quanh, sai tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân đi trường kỳ đánh người Việt ở phương nam. Trước sức mạnh của quân Tần, các tộc Việt lui dần về phía Nam. Năm 208 trước công nguyên, liên quân Lạc Việt, Tây Âu và các tộc Việt khác đã hợp lực đại phá quân Tần, giết chết Đồ Thư, tiêu diệt mấy chục vạn quân Tần. Tần Nhị Thế buộc phải bãi binh. Vùng đất chiếm được, nhà Tần đặt thành các quận, huyện. Đất Mân đặt tên là quận Mân Trung. Đến đời nhà Đường đặt tên là Phúc Kiến quan sát sứ, rồi sau này đổi thành tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

    Cuốn gia phả cổ xưa nhất của họ Trần

    Học sử Việt Nam, chúng ta đều biết năm 1285, trước sức mạnh to lớn của giặc Nguyên Mông mở cuộc chiến tranh lần thứ hai xâm lược Việt Nam, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc đã khiếp sợ đầu hàng kẻ thù, được vua Nguyên là Hốt Tất Liệt phong làm An Nam quốc vương. Nhưng các anh em hoàng tộc họ Trần đã đoàn kết một lòng cùng toàn dân đánh tan quân giặc. Trần Ích Tắc trở nên vô dụng, phải về sống lưu vong ở tỉnh Hồ Nam – Trung Quốc. Đến nay, hậu duệ của Ích Tắc bao gồm 18 nhánh sống rải rác ở Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương, Liễu Châu (Trung Quốc). Người hậu duệ thuộc ngành trưởng hiện giữ từ đường và gia phả họ Trần là ông Trần Đình Nhân, chủ một quán cà phê ở thị trấn Lạc Dương bên hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam-Trung Quốc). Chính sử của ta khi ghi chép về họ Trần chỉ lưu tâm đến dòng họ này từ đời nguyên tổ Trần Lý – liên quan đến việc hình thành triều đại nhà Trần, còn đời thủy tổ Trần Kinh ghi chép rất sơ sài, các đời trước nữa càng mờ mịt. Có lẽ trong những năm tháng cuối đời sống tha hương trên đất khách quê người, vốn có tài văn chương và nguồn tư liệu phong phú, nên cuốn gia phả do Trần Ích Tắc biên soạn là công phu và đầy đủ nhất về họ Trần từ năm 227 trước công nguyên.

    Hơn một nghìn năm họ Trần ở đất Kinh Bắc

    Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (Phúc Kiến-Trung quốc ngày nay). Năm 227 trước công nguyên, Phương Chính hầu Trần Tự Minh đang làm quan cho Triệu Đà (?), vì mâu thuẫn giữa người Hán và người Việt, đã theo dòng người Bách Việt di cư xuống phía Nam. Tự Minh được vua An Dương vương thu nạp, trở thành vị tướng tài ba cùng Cao Lỗ giúp chống lại Triệu Đà. Khi thành Cổ Loa thất thủ, đất nước rơi vào tay cha con Triệu Đà, Trần Tự Minh lui về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc, hậu duệ phân ra nhiều nhánh.

    Dựa trên nguồn tư liệu gia phả do Trần Ích Tắc viết, đối chiếu với lịch sử Việt Nam và Trung Quốc có thể hiểu: Trần Tự Minh trước kia làm tướng thời nhà Tần, giúp nhà Tần thống nhất Trung Quốc, được vua Tần phong tước Phương Chính hầu (lúc này Triệu Đà đang là một chức quan nhỏ, huyện lệnh huyện Long Xuyên thuộc nhà Tần nên chưa thể phong tước cho Trần Tự Minh được). Sau khi thống nhất Trung Quốc, năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đưa 50 vạn quân vượt Trường Giang xâm lược vùng Bách Việt ở phương nam. Bất bình với chính sách xâm lược, bành trướng của Tần Thủy hoàng, Trần Tự Minh theo dòng người Bách Việt di cư xuống phía Nam, tham gia lực lượng chống quân Tần lập công lớn, trở thành vị tướng tài ba của Thục An Dương vương. Khi Triệu Đà đem quân đánh chiếm nước Âu Lạc, Trần Tự Minh đã cùng tướng quân Cao Lỗ giúp An Dương vương chống quân xâm lược Triệu Đà. Con cháu Trần Tự Minh sống ở vùng Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh ngày nay).

    Dòng thống tôn đến đời Trần Tự Viễn (582-637) nổi lên như một nhân tài kiệt xuất ở xứ Giao Châu. Hồi ấy ở Từ Sơn có sư Pháp Hiền, đệ tử của đại sư Ti- ni –đa- lưu- chi (Ấn độ) đang dụng công truyền bá đạo Phật Thiền Tông, thu nạp rất đông môn đệ. Lịch sử nhà Phật chép rằng: Sau khi Ti-ni-đa-lưu-chi tịch, sư Pháp Hiền vào Từ Sơn tập định. Thân hình ngài như cây khô, mọi vật ngã đều quên, các giống chim và thú rừng đến quấn quýt thân mật. Người người bấy giờ mộ tiếng theo học rất đông không kể xiết. Ngài bèn dựng chùa dạy học, cư tăng lúc nào cũng hơn 300 người, Thiền tông phương Nam bấy giờ là thịnh nhất.

    Chú bé mồ côi kiếm củi gần chùa lúc bấy giờ là Trần Tự Viễn được sư Pháp Hiền thu nạp, yêu mến dạy cho học thông tam giáo (Phật, Nho, Lão) và cả võ công nữa. Sau nhiều năm tu luyện, Tự Viễn trở thành môn đệ xuất sắc nhất của phái thiền tông và cũng rất nổi tiếng võ công cao cường. Môn phái võ thuật của ông đặc sắc nhất của Phật phái thiền tông và ông đem võ công của mình cùng phật tử giúp dân chống lại sự đô hộ hà khắc của nhà Tùy, nhà Đường. Dân khắp vùng đều sùng kính tôn ông là Phật sống. Có lẽ đây là lý do giải thích vì sao dòng họ Trần sau này rất thượng võ nhưng cũng rất sùng đạo Phật. khai sáng Thiền phái Trúc Lâm trên núi Yên Tử.

    Họ Trần di cư về Thái Đường

    Họ Trần dòng thống tôn có chữ đệm là “Tự” cư ngụ ở Kinh Bắc, truyền đến đời Trần Tự An (1010-1077) mỗi ngày thêm hiển hách trong giới võ lâm của Đại Việt. Để phân biệt với các võ phái khác, Tự An đặt tên cho võ phái của mình là Đông A, chiết tự chữ “Trần” ra hai chữ “Đông và A” mà thành. Thời ấy ở Đại Việt có 3 phái võ nổi danh: phái võ Lĩnh Nam xuất phát từ Mê Linh, sau lưu truyền quanh vùng Tam Đảo-Ba Vì; phái võ Hoa Sơn xuất phát từ Kinh Bắc rồi lan truyền ra Thăng Long và các vùng phụ cận; phái võ Đông A của Tự An. Ba phái võ trên đều tràn đầy lòng tự tôn dân tộc, nhưng có sự khác nhau về hệ tư tưởng lại muốn thống trị giới võ lâm cả nước nên mâu thuẫn khá gay gắt. Phái Lĩnh Nam sùng bái đạo Lão, hai phái Hoa Sơn và Đông A cùng xuất phát ở Kinh Bắc, cùng theo Phật giáo Thiền tông, nhưng khác nhau về thân phận và võ thuật. Phái Hoa Sơn thuộc hoàng tộc nên lấn át phái Lĩnh Nam và Đông A về nhiều phương diện. Thế nhưng Đông A với sự dìu dắt của Trần Tự An hồi ấy có “Côi Sơn tam anh”, ba nhân vật võ công lừng lẫy là Thanh Mai, Tự Mai, Thông Mai. 

    Trước khi qua đời, Trần Tự An khuyên con trai là Trần Tự Mai nên tìm cách chuyển võ đường Đông A đi một nơi khác để tránh sự xung đột với phái Hoa Sơn, có hại chung cho sự nghiệp võ lâm Đại Việt. Lúc đầu Tự Mai chuyển đến ở Đông Triều, Chí Linh. Sau đó đến đời con là Trần Tự Kinh (tên nghĩa là Kình) quyết chí đi khẩn hoang ở châu thổ sông Nhị Hà. Mười năm đầu Trần Tự Kinh dựng trại ở Tức Mạc với hai con trai rất giỏi võ là Trần Tự Hấp và Trần Tự Duy. Về cuối đời, ông nghe theo người con trưởng là Tự Hấp chuyển hẳn về ấp Thái Đường, định cư lâu dài, có nhiều ân đức với dân trong vùng. Đến đời Tự Hấp (tên nghĩa là Trắm) kế tục làm trưởng môn phái võ Đông A, thanh thế họ Trần đã rất lớn.

    Huyền tích trong tộc phả giải thích lý do họ Trần rời Tức Mạc về Thái Đường rất ly kỳ. Sau khi vua Lý Nhân Tông chết, triều đình có sự rối ren. Một hôm Tự Kinh và hai con Tự Hấp, Tự Duy cùng mấy chục đệ tử đậu thuyền vãn cảnh, bàn luận thế sự, Tự Hấp phát hiện thấy có xác người bị đóng bè trôi sông liền sai thủ hạ vớt lên. Trong số môn đệ phái võ Đông A có Phạm Tử Tuệ giỏi về y thuật. Ông phát hiện thấy xác còn hơi ấm, kinh mạch trì bế nhưng chưa chết hẳn nên hết lòng cứu chữa theo lệnh của Tự Hấp. Kẻ được cứu nạn là Đoàn Thông quê ở lộ Hồng Châu (tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay). Ông ta bị một viên quan gian ác ở Thăng Long là Nguyễn Cố sát hại. Vốn là thày địa lý có tiếng tăm, Đoàn Thông báo với Tự Hấp rằng ở vùng Thái Đường có khu đất tụ nhiều linh khí. Nếu đặt mộ tổ vào đó ắt có ngày sẽ phát đế vương. Tự Hấp nghe xong cả mừng xin cha cho đi gấp về Đông Triều chuyển mộ cụ cố Trần Tự Mai về đặt ở Thái Đường, rồi chuyển gia quyến về đó sinh sống để tiện trông coi phần mộ. Nhờ vậy gia tộc họ Trần mỗi ngày thêm phát đạt, võ môn Đông A càng thêm hưng thịnh, thu hút nhân tài khắp nơi về tụ hợp.

    Tự Hấp ở đất Thái Đường sinh ra Trần Lý. Trần Lý lại sinh ra các con Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung. Người em là Trần Tự Duy ở đất Lưu Xá bên cạnh sinh ra Trần Thủ Huy. Thủ Huy sinh ra Trần Thẩm (tước An Quốc vương) và Trần Thủ Độ. Như vậy nếu xét từ đời Trần Tự Kinh thì Tự Hấp thuộc ngành trưởng, Tự Duy thuộc ngành thứ. Đến đời Trần Thừa và Trần Thủ Độ là quan hệ anh em cùng họ nhưng khác ngành, đã sang đời thứ tư. Đó là lý do mà Trần Lý hứa gả Trần Thị Dung cho Trần Thủ Độ. Theo luật tục họ Trần thì cách ba đời là thông gia với nhau được.

    Họ Trần khởi nghiệp

    Sách Trần Nhân tông viết “Trần Thủ Huy vốn một trang nam nhi tuấn tú và dũng mãnh. Gặp người bị nạn, Thủ Huy đã ra tay cứu giúp. Không ngờ người đó lại là vị thái tử nhà Lý tên là Lý Long Xưởng, con vua Lý Anh tông. Thái tử mang ơn kết tình huynh đệ với Thủ Huy. Thủ Huy giúp Lý Long Xưởng dẹp loạn trừ gian trong hoàng tộc nhà Lý nên được vua Lý gả công chúa Đoan Nghi, trở thành phò mã có quyền, có chức trong triều đình. Về sau, vì nghe lời dèm pha, vua Lý đã đày Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi đi sứ phương xa tận nước Kim, nước Liêu (thuộc Mông Cổ ngày nay) . Công chúa Đoan Nghi sinh ra Trần Thủ Độ ở bên đó. Khi đã trưởng thành, Trần Thủ Độ trở về Đại Việt, sống với bác là Trần Lý, góp phần khởi nghiệp nhà Trần.

    Lý Long Xưởng vì có tội với vua cha, bị truất xuống làm thứ dân. Em là Lý Long Trát được nối ngôi vua hiệu là Lý Cao tông. Lý Cao tông chơi bời vô độ, không quan tâm chính sự, đất nước đói kém, cướp bóc như ong, các bè đảng nổi lên chiếm cứ các vùng tìm cách cướp ngôi vua. Vua phải chạy lên vùng Quy Hóa (vùng núi tỉnh Phú Thọ ngày nay), thái tử Sảm chạy về Hải ấp (nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Thái tử Sảm thấy Trần Thị Dung, con gái Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ, phong cho Trần Lý tước Minh Tự, phong cho Tô Trung Tử, em vợ Trần Lý làm Điện tiền chỉ huy sứ. Cha con Trần Lý, Trần Thừa, Trần Tự Khánh đều hết lòng thờ vua nhà Lý. Thái tử Sảm nối ngôi cha, hiệu là Lý Huệ Tông, Lý Huệ tông không có con trai. lại bị bệnh tâm thần nên truyền ngôi cho con gái là Lý Phật Kim, thường gọi là Lý Chiêu Thánh hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều đại nhà Trần bắt đầu từ đấy. 

    Mộ tổ họ Trần

    Vùng đất nơi đặt mộ tổ của nhà Trần thuộc lưu vực sông Phổ Đà (tức sông Luộc) và nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Truyền thuyết kể lại rằng vào thời điểm đó có hai dòng họ nổi tiếng nhất sinh sống ở đây là họ Lý và họ Tô, còn họ Trần mãi sau này mới đến định cư và kết giao được với họ Tô thông qua đám cưới giữa Trần Lý với người con gái họ Tô. Giai thoại dân gian truyền tai nhau rằng: Trần Lý có một người bạn vốn là một thầy địa lý rất giỏi, được dân chúng gọi là thầy Phùng. Vốn là một người sành sỏi trong nghề, lại thường xuyên đi khắp nơi tìm đất đặt mộ nên thầy Phùng biết ở thôn Lưu Gia này có ngôi huyệt quý. Ngôi huyệt quý đó được mô tả như sau: “Tổ sơn bắt nguồn từ đoạn giao giữa ba ngọn núi chồng lên nhau, lấy Tam Đảo làm gốc rồi cùng với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị chụm lại. Long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc -Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng (hiện chưa rõ địa điểm này ở đâu) mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác. Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường (xã Thái Đường, huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay) và kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có 3 gò lớn là Tam thai, phía sau có 7 gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
    Thầy Phùng vốn là một người am hiểu về phong thủy, địa lý và biết vận nhà Trần sắp tới nên nói cho Trần Lý biết chuyện này rồi khuyên Trần Lý nên dời mả tổ về chôn tại đây. Nghe theo lời thầy Phùng, vào một ngày lập thu, Trần Lý dời mộ tổ từ Tức Mặc (Nam Định) về táng tại gò Sao, công việc hoàn tất đúng chính giờ Hợi (tức 22h đêm). Xong xuôi, trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết. Chính vì được mộ tổ họ Trần được chôn cất vào thế đất “hậu sinh phát đế” nên sau đó con cháu nhà Trần cứ thế phát vương và thay nhau nắm giữ thiên hạ hoặc làm quan trong triều.

    ST.

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

Nhà thờ Tổ họ Trần Việt nam



Thứ Tư, 9 tháng 5, 2018

Phả ký Phân chi Trưởng Ất Chi Ất




                 


1.
ĐỜI THỨ NHẤT: CỤ KHỞI TỔ TRẦN PHÚC NHÂN
Đệ nhất thượng thượng tổ, Quý ông họ Trần tên chữ là Phúc Nhân giỗ ngày 13 tháng 8. Đệ nhất Quý thổ tỷ, con gái thứ 2 họ Nguyễn, hiệu là Từ Tâm, giỗ ngày mồng 2 tháng 10. Hai cụ tổ có 1 con trai là Trần Phúc Lương. Vào trước năm Vĩnh Hựu nhà Lê, cụ Thuỷ tổ Trần Phúc Nhân đến định cư ở làng Hoàng Xá, không rõ từ đâu di cư đến. Cụ sinh vào năm Canh Ngọ. Mộ táng tại cánh đồng Giữa, làng Đình Tràng (hiện nay mộ cụ tổ ở ngay cạnh bên phải đường 21B (hướng Hà Đông - Vân Đình) cách ngã ba rẽ vào làng khoảng 300m). Năm 1983, mộ cụ Thủy Tổ được tôn tạo bởi Chi Ất. Khi tôn tạo thấy có bia sành nung có chữ nho ghi 13/8 (đúng ngày giỗ) vẫn để nguyên ngay ở dưới chỗ thắp hương.

2.
ĐỜI THỨ HAI: CỤ THỨ TỔ TRẦN PHÚC LƯƠNG
Tổ đời thứ 2, Quý ông họ Trần tự Phúc Lương, giỗ ngày mồng 10 tháng 3. Mộ táng tại nghĩa trang làng Hoàng Xá, Vân Đình. Tổ bà đời thứ 2, con gái cả họ Nguyễn, hiệu Từ Am, giỗ ngày mồng 9 tháng 5. Cụ thứ Tổ Trần Phúc Lương sinh hai người con trai là: Trần Phúc Thịnh và Trần Phúc Độ.

3.
ĐỜI THỨ BA: Cụ TRẦN PHÚC ĐỘ là con thứ hai cụ Trần Phúc Lương, là em trai của cụ Trần Phúc Thịnh. Cụ mất ngày 09/3 âm lịch. Mộ   cụ táng tại làng Hậu Xá, xã Tảo Dương Văn, Huyện Ứng Hòa. Nhà Thờ tại nhà Ông Cả Dụng. Cụ bà Hoàng Thị Từ Hiền, mất ngày 11/1, mộ táng tại đồng làng. Cụ Phúc Độ sinh ra cụ Phúc Chân, cụ Phúc Hoàn. Đến đời thứ 3 họ Trần hình thành 2 chi. Chi Giáp là chi trưởng (chi Trần trên) thờ cụ Thuỷ tổ và cụ Thứ tổ. Cụ Trần Phúc Thịnh là Tổ Chi Giáp. Chi Ất là chi thứ (chi Trần dưới) thờ cụ Trần Phúc Độ. Cụ Trần Phúc Độ là Tổ Chi Ất.
4.
ĐỜI THỨ TƯ: Cụ Trần Phúc Chân là con trai của cụ Trần Phúc Độ, Cụ mất ngày 29 tháng 2. Cụ bà là Đỗ Thị Từ Ân mất ngày 05/5 mộ tại xã Hoa Âm tức Thanh Ấm. Hai cụ có 2 con trai là cụ Trần Thuần Chất và cụ Trần Phúc Ân. Mộ cụ Phúc Chân táng tại đồng làng, gần mộ cụ Phúc Ân. Năm 1996 chi Ất tôn tạo mộ hai cụ, xây chung lại thành một ngôi mộ đôi. Năm 2014 mộ hai cụ được ốp gạch men do gia đình cháu Trần Ngọc Tiến Trưởng ngành Ôn Chất công đức.

5.

ĐỜI THỨ 5Trần Thuần Chất - Tổ phân Chi Trưởng Ấttrưởng chi Ất, mất ngày 10 tháng 7, mộ táng tại bãi Thiên Mã xứ Chính Đình đồng làng. Cụ bà Đặng Thị Diệu Chinh, mất ngày 08/8, mộ táng cùng cụ ông. Cụ Trần Thuần Chất là con trưởng cụ Phúc Chân - cháu ba đời cụ Phúc Độ và là cháu 5 đời cụ Thuỷ tổ Phúc Nhân (thờ tại Chi Giáp). Cụ Trần Thần Chất sinh ra cụ Trần Chân Huệ.

ĐỜI THỨ 6
6.1
Trần Chân Huệ là con trưởng cụ Thuần Chất thừa kế Trưởng chi Ất, mộ tại xứ Thể Găng đồng làng. Cụ bà Nguyễn Thị Từ Khánh, mất ngày 20/4, mộ tại đồng làng. Hai cụ sinh ra cụ Hữu Luân.

ĐỜI THỨ 7
7.1
Trần Hữu Luân con trai trưởng cụ Chân Huệ, thừa kế Trưởng chi Ất, mất ngày 16/12. Mộ tại xứ đồng trước. Vợ là Đặng Thị Dung Mẫn, mất ngày 04/10, mộ tại xứ Thể Găng đồng làng. Hai cụ sinh hai con trai là cụ Hữu Thể và cụ Hữu Doanh.

ĐỜI THỨ 8
8.1



8.2
Trần Hữu Thể con trai trưởng cụ Hữu Luân thừa kế Trưởng chi Ất. Mất ngày 13/6. Mộ tại vườn Giấy, Phủ Thành đồng làng. Vợ là cụ Lương Thị Diệu Thiện, mất ngày 08/5, mộ chung với cụ ông. Hai cụ sinh 2 trai: Hữu Đởm tức Đề kế trưởng, thứ là Hữu Thân.
Trần Hữu Doanh con trai thứ cụ Hữu Luân, phạt tự.

ĐỜI THỨ 9
9.1
Trần Hữu Đởm tức Hữu Đề, con trai trưởng cụ Hữu Thể  thừa kế Trưởng chi Ất. Mộ tại cánh đồng trước làng. Cụ có 2 vợ. Vợ cả Đặng Thị Khuyên sinh ra Hữu Năng, Hữu Thành, Hữu Chăn (tức Diệm) mất sớm. cụ vợ 2 Vũ Thị Từ Tiết sinh được 2 gái là Thị Hãn và Thị Toàn đều xuất giá.
9.2
 Trần Hữu Thân là con trai thứ 2 cụ Hữu Thể, vợ cả là Đặng Thị Thúc Thanh, vợ hai là Đặng Thị Từ Hảo. Hai cụ sinh được 1 trai là Hữu Tung.

ĐỜI THỨ 10
10.1
Trần Hữu Năng tức Hữu Diện, con trai trưởng cụ Hữu Đởm thừa kế Trưởng chi Ất, sinh cụ Trần Hữu QuyềnCụ sinh giờ Mùi ngày 7/6 năm Giáp Tý, mất giờ Mùi ngày 19/8 năm Quý Dậu thọ 70 tuổi. Mộ táng tại xứ đồng trước thôn Lương Xá. Cụ có 3 vợ: cụ vợ cả Đặng Thị Hợi sinh cụ Hữu Sửu và cụ Hữu Quyền, cụ vợ 2 Đỗ Thị Kính sinh 2 con gái là Thị Khiết và Thị Khối đều mất sớm, cụ vợ 3 Đặng Thị Đột. Cụ Hữu Năng đỗ nhị trường thời nhà Nguyễn lấy hiệu là Thanh tu cát sĩ,  tham gia tôn tạo đình làng năm 1860-1862.
10.2
Trần Hữu Thành con trai thứ cụ Hữu Đởm, sinh con trai cụ Hữu KD, đến đời 13 là Hữu Ý.
10.3
10.4
Trần Hữu Chăn tức Hữu Diệm mất sớm.
Trần Thị Khiết, con gái đầu cụ Hữu Năng, mất sớm.
10.5
Trần Thị Khối, con gái thứ 2 cụ Hữu Năng, mất sớm.
10.6
Trần Hữu Tung con trai cụ Hữu Thân, có vợ cả là Đặng Thị Tiết Kiệm, vợ hai là cụ Thúc An. Hai cụ sinh ra 1 trai là cụ Hữu Dư.

ĐỜI THỨ 11
11.1
11.2
Trần Hữu Sửu mất 13/6, mộ tại ruộng chua đồng trước làng, phạt tự.
Trần Hữu Quyền con trai cụ Hữu Năng thừa kế trưởng chi Ất, mất ngày 08/7. Mộ tại vườn Tràng đồng làng. Cụ có 2 vợ. Cụ vợ cả Đặng Thị Nhạn sinh Hữu Bài kế trưởng, cụ vợ hai Hoàng Thị Bế.
11.3
Trần Hữu KD con trai cả cụ Hữu Thành sinh ra cụ Hữu KD1.
11.4
Trần Hữu Dư tức Hữu Phùng, con trai cả cụ Hữu Tung sinh ra cụ Hữu Chức

ĐỜI THỨ 12
12.1
Trần Hữu Bài là con trai trưởng cụ Hữu Quyền thừa kế trưởng chi Ất. Cụ sinh giờ Dậu năm Nhâm Thân 1872, mất giờ Dần ngày 5/10, năm Kỷ Tỵ, thọ 58 tuổi. Cụ vợ cả Đỗ Thị Tửu là con gái họ Đỗ Đặng, sinh giờ Dần ngày 16/12, năm Mậu Thìn. Cụ vợ hai Hoàng Thị Túc, mất ngày 05/8, thọ 48 tuổi, mộ táng tại vườn Tràng đồng làng. Cụ sinh được hai gái là Thị Tiền và Thị Hà, một trai út là Hữu Tài.
Cụ Hữu Bài làm nghề buôn bán gỗ.
12.2
Trần Hữu KD1 con trai cả cụ Trần Hữu KD sinh ra cụ Hữu Ý
12.3
Trần Hữu Chức, ngày mất 14/01. Là con trai cả cụ Hữu Dư. Vợ là cụ Nguyễn Thị Xuân, người cùng làng, mất ngày 18/9Cụ sinh 1 trai là Hữu Phẩm, 2 gái là Thị Dậu và Thị Mão.

ĐỜI THỨ 13
13.1
Trần Thị Tiền, sinh năm 1904, là con gái cả của cụ Hữu Bài. Có chồng là Đặng Viết Ngưỡng cùng làng. Là mẹ cụ bà Tư Tín.
13.2
Trần Thị Hà, sinh năm 1906, mất 22/01/1950. Là con gái thứ 2 của cụ Hữu Bài, vợ cả cụ Đặng Văn Thiện tức Hai Thiện, người cùng làng.
13.3
Trần Hữu Tài, sinh năm 1908, mất ngày 21/10, thọ 40 tuổi, mộ táng tại đồng Miễu. Thừa kế trưởng chi Ất, là con trưởng cụ Hữu Bài và cụ Hoàng Thị Túc.
Cụ buôn gỗ và làm thủ quỹ làng một thời gian. Cụ bà là Đặng Thị Thược là con gái thứ 2 cụ Đặng Đình Kỷ, mất ngày 14/1 và cụ bà họ Đặng mất ngày 06/12. Hai cụ có 2 con trai là Hữu Dụng, Hữu Vượng, 3 gái là Thị Vòng, Thị Vuốt, Thị Huyền.
13.4
Trần Hữu Ý, ngày mất 07/3, là con trai cả cụ Hữu KD1. Vợ là Hoàng Thị Chút, ngày mất 14/5/1980. Có 1 con trai là Hữu Mã và 5 con gái là Thị Mạn, Thị Nhỡ, Thị Dụt, Thị Hồ, Thị Mỹ.
13.5
Trần Hữu Phẩm con trai cả cụ Hữu Chức sinh 2 con trai là Hữu Sắc và Hữu Tấn. Vợ người cùng làng. Cụ Phẩm đi đâu không rõ, biệt vô ân tín.
13.6
Trần Thị Dậu, mất 1976. Lấy chồng là Lều Văn Tác ở xã Nhị Khê, Thường Tín.
13.7
Trần Thị Mão, mất 1978. Lấy Chồng là Lê Văn Quyến ở xã Quảng Nguyên, Ứng Hòa. Bỏ chồng về quê ở.

ĐỜI THỨ 14
14.1
Trần Hữu Dụng, sinh năm 1924, mất năm 1989. Là con trai trưởng cụ Hữu Tài, thừa kế Trưởng Chi Ất. Vợ là Nguyễn Thị Ba sinh 1923, mất 1995,  là con cụ Nguyễn Tất Nhã và cụ Nguyễn Thị Vẹt, người cùng làng. Sinh được 4 con trai Hữu Du, Hữu Hòa, Hữu Hiệp, Hữu Dụ và 3 con gái là Thị Dung, Thị Nga, Thị Ngọc.
14.2
Trần Hữu Vượng, sinh năm 1929, mất 27/6/2010. Vợ Nguyễn Thị Đỉnh, người cùng làng. Thị Đỉnh là em ruột Thị Ba là vợ cả ông Hữu Dụng. Có 3 gái là Thanh Hà, Thu Hà, Hồng Hà và 1 trai là Anh Tuấn.
14.3
Trần Thị Vòng, là con gái đầu của cụ Hữu Tài. Chồng là Đặng văn Cương người cùng làng.
14.4
Trần Thị Vuốt, là con gái thứ 2 của cụ Hữu Tài. Chồng là Đỗ Đặng Niệm người cùng làng.
14.5
Trần Thị Huyền, là con gái thứ 3 của cụ Hữu Tài. Chồng là Vũ Xuân Mai người ở Yên Bái
14.6

14.7
Trần Hữu Mã sinh năm 1924, mất 15/5/1951, là liệt sĩ, sinh 1 con gái là Thị Nghĩa lấy chồng ở Đông Dương, Ứng Hòa.
Trần Thị Mạn, sinh năm 1927, mất 7/8/2012, là con gái đầu của cụ Hữu Ý. Lấy chồng họ Đặng Viết, liệt sỹ chống Pháp, có con trai là Đặng Viết Lương.
14.8
Trần Thị Nhỡ, sinh năm 1929, là con gái thứ 2 của cụ Hữu Ý
Trần Thị Dụt, sinh năm 1930, là con gái thứ 3 của cụ Hữu Ý.
14.9
Trần Thị Hồ, sinh năm 1932, là con gái thứ 4 của cụ Hữu Ý.
14.10
Trần Thị Mỹ, sinh năm 1934, là con gái thứ 5 của cụ Hữu Ý.
14.11
Trần Hữu Sắc, sinh năm 1929, mất 07/6/2010, là con trai của cụ Hữu Phẩm. Vợ là Lê Thị Hải, sinh năm 1937. Có 9 con: 3 con trai là Hữu Cường, Hữu Thịnh, Hữu Quân.  6 con gái là: Thị Bình, Thị Lan, Thị Chi , Thị Mai , Thị Yến, Thị Oanh.
14.12
Trần Hữu Tấn sinh năm 1937, mất 2011. Là con trai thứ 2 của cụ Hữu Phẩm. Vợ cả là Nguyễn Thị Tần sinh năm 1941, mất 1990, vợ hai là Đặng Thị Duyên sinh năm 1974. Có 5 con: 3 gái, 2 trai. 3 gái là Thị Hạnh, Thị Loan, Thị Hoàn. 2 trai là Hữu Tân, Hữu Tiến.

ĐỜI THỨ 15
15.1
Trần Hữu Du là con trai trưởng của ông Hữu Dụng, Trưởng Chi Ất đời 15, sinh năm 1948. Vợ là Đinh Thị Hường, sinh năm 1951. Có 1 con trai, 2 con gái. Con gái đầu là Thị Thùy Dương, con trai là Hữu Đồng và gái út Thị Minh Châu.
15.2
Trần Thị Dung, sinh năm 1951, con gái đầu của ông Hữu Dụng.
15.3
Trần Hữu Hoà sinh 1954, con trai thứ ông Hữu Dụng, vợ  là Nguyễn Thị Thế, sinh năm 1953. Có 2 con: con gái Thị Lan Hương, con trai Hữu Minh.
15.4
Trần Thị Nga, sinh năm 1956, con gái thứ 2 của ông Hữu Dụng.
15.5
Trần Thị Ngọc, sinh năm 1969, con gái thứ 3 của ông Hữu Dụng.
15.6
Trần Hữu Hiệp sinh 1963, con trai thứ 3 ông Hữu Dụng, vợ cả là Tưởng Hồng Hạnh, sinh năm 1965, vợ hai là Đinh Thị Nhung, sinh năm 1976. Có 2 con trai là Việt Hưng (con vợ cả), Việt Hà (con vợ hai).
15.7
Trần Hữu Dụ sinh năm 1966, con trai thứ 4 ông Hữu Dụng. Vợ là Trần Thị Hòa, sinh năm 1971. Có 1 con trai là Bảo Anh, 1 con gái là Mai Phương.
15.8
Trần Thanh Hà, sinh năm 1964, con gái đầu của ông Hữu Vượng.
15.9
Trần Thu Hà, sinh năm 1966, con gái thứ 2 của ông Hữu Vượng.
15.10
Trần Hồng Hà, sinh năm 1966, con gái thứ 3 của ông Hữu Vượng.
15.11
Trần Anh Tuấn, con trai trưởng của ông Hữu Vượng. Sinh năm 1980. Có 1 con trai là Anh Tú, 1 con gái là Ngọc Diệp. Làm nghề thiết kế xây dựng.
Địa chỉ: Khương Hạ, Khương Đình, Thanh Xuân, HN.
15.12
Trần Thị Nghĩa là con gái của ông Hữu Mã, lấy chồng ở Đông Dương, Ứng Hòa.
15.13
Trần Thị Bình, sinh năm 1957, con gái đầu của ông Hữu Sắc. Sống tại Trung Hòa Nhân Chính.
15.14
Trần Hữu Cường sinh năm 1959, con trai cả ông Hữu Sắc, vợ là Dương Thị Hồng, sinh năm 1960. Có 2 con trai là Hữu Tuấn, Hữu Ngọc, 1 con gái là Thị Vân. Địa chỉ Hoàng Xá, Vân Đình.
15.15
Trần Hữu Thịnh sinh năm 1960, con trai thứ 2 ông Hữu Sắc. Vợ là Nguyễn Thị Ngoan, sinh năm 1962, có 2 con trai là Mạnh Hưng, Quang Huy.
15.16
Trần Thị Lan, sinh năm 1963, là con gái thứ 2 của ông Hữu Sắc.
15.17
Trần Hữu Quân sinh năm 1965, con trai thứ 3 ông Hữu Sắc, vợ là Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1971. Có 2 con gái là Thị Huyền, Thị Hằng, 1 con trai là Hữu Thành Đạt.
15.18
Trần Thị Chi, sinh năm 1968, con gái thứ 3 của ông Hữu Sắc, sống tại Bảo Lộc, Lâm Đồng.
15.19
Trần Thị Mai, sinh năm 1970, con gái thứ 4 của ông Hữu Sắc, sống tại Quận 1 TP Hồ Chí Minh.
15.20
Trần Thị Yến, sinh năm 1973, con gái thứ 5 của ông Hữu Sắc, sống tại Quận 3 TP Hồ Chí Minh.
15.21
Trần Thị Oanh, sinh năm 1975, con gái thứ 6 của ông Hữu Sắc, địa chỉ 161, Thái Hà, Hà Nội.
15.22
Trần Thị Hạnh, sinh năm 1961, mất năm 2000, là con gái cả của ông Hữu Tấn. Đi bộ đội về, có chồng, con.
15.23
Trần Thị Loan, sinh năm 1966, là con gái thứ 2 của ông Hữu Tấn.
15.24
Trần Thị Hoàn, sinh năm 1968, là con gái thứ 3 của ông Hữu Tấn. Có chồng được 1 con trai, 1 con gái.
15.25
Trần Hữu Tân, sinh năm 1974, là con trai đầu của ông Hữu Tấn. Vợ là Dương Thị Lý, sinh năm 1978. Có 1 con gái Thị Như Anh, 1 con trai Trần Khang Nguyên.
15.26
Trần Hữu Tiến con trai thứ 2 ông Hữu Tấn.
                ĐỜI THỨ 16
16.1       Trần Thùy Dương, sinh năm 1978, con gái đầu của Hữu Du, lấy chồng là Cường có 1 con gái là Thị Minh Châu.
16.2       Trần Hữu Đồng sinh 1980, con trai trưởng Trần Hữu Du. Vợ là  Nguyễn Thị Thu Hiền, sinh năm 1984. Có một gái là Hiền Anh, 1 con trai là Trần Thanh Giang.
16.3       Trần Thị Minh Châu, con gái thứ 2 của Hữu Du.
16.4       Trần Thị Lan Hương, sinh năm 1987, là con gái đầu của Hữu Hòa, có chồng Lê Anh Đức, sinh năm 1986.
16.5       Trần Hữu Minh sinh 1988, con trai Hữu Hòa, vợ Nguyễn Thị Kiều          sinh1986, có con trai đầu là Hiểu Lam.
 16.6      Trần Việt Hưng sinh 1991, con trai đầu Hữu Hiệp.
 16.7      Trần Việt Hà sinh 2003, con trai thứ 2 Hữu Hiệp.
 16.8      Trần Bảo Anh, sinh 1996, con trai Hữu Dụ.
 16.9      Trần Mai Phương, sinh năm 2006, con gái Hữu Dụ.
 16.10    Trần Anh Tú, con trai Trần Hữu Tuấn.
 16.11    Trần Hữu Tuấn, sinh năm 1984, con trai cả Hữu Cường. Vợ là Vũ Thị  Thúy, sinh năm 1990. Có 1 con trai Tuấn Vũ.
16.12     Trần Hữu Ngọc, sinh năm 1986,  con trai thứ 2 Hữu Cường. Vợ là Nguyễn Thị Hồng, sinh năm 1990. Có 1 con gái là Thị Kim Anh.
 16.13    Trần Thị Vân, sinh năm 1989,  con gái của Hữu Cường.
 16.14    Trần Hữu Mạnh Hưng, sinh năm 1990,  con trai cả Hữu Thịnh.
 16.15    Trần Hữu Quang Huy, sinh năm 1992,  con trai thứ của Hữu Thịnh.
 16.16    Trần Thị Huyền, sinh năm 1996,  con gái đầu của Hữu Quân.
16.17     Trần Thị Hằng, sinh năm 1998,  con gái thứ 2 của Hữu Quân.
16.18     Trần Hữu Thành Đạt, sinh năm 2003,  con trai của Hữu Quân.
16.19     Trần Thị Như Anh, sinh năm 2013,  con gái đầu của Hữu Tân.
16.20     Trần Khang Nguyên, sinh năm 2017,  con trai của Hữu Tân.

ĐỜI THỨ 17
17.1       Trần Thị Hiền Anh, sinh năm 2009, con gái đầu của Hữu Đồng.
17.2       Trần Thanh Giang sinh 2014, con trai Hữu Đồng.
17.3       Trần Hiểu Lam sinh 2018, con trai Hữu Minh.
17.4       Trần Tuấn Vũ, sinh năm 2017, con trai của Hữu Tuấn.
17.5       Trần Kim Anh, sinh năm 2012, con gái của Hữu Ngọc.